Vann Phan
Trong lúc toàn thể Miền Nam Việt Nam đắm chìm trong nỗi đớn đau, tuyệt vọng khi những chiếc T-54 đầu tiên rầm rộ húc vào cổng Dinh Độc Lập và buộc Tổng Thống Dương Văn Minh phải ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng quân Cộng Sản Bắc Việt, chấm dứt 21 năm sinh tồn ngắn ngủi của chế độ tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam, các thành phần phản chiến và thân cộng trên thế giới, từ Hoa Kỳ cho tới Thụy Điển và luôn cả tại Miền Nam Việt Nam nữa, đều không che giấu được nỗi vui mừng, bởi vì ước vọng chấm dứt cuộc chiến tranh đẫm máu tại Việt Nam của họ đã thành sự thật, bất kể hậu quả của nền hòa bình đó có ra sao đi nữa cho dân tộc Việt Nam và thế giới sau này.
Trong lúc toàn thể Miền Nam Việt Nam đắm chìm trong nỗi đớn đau, tuyệt vọng khi những chiếc T-54 đầu tiên rầm rộ húc vào cổng Dinh Độc Lập và buộc Tổng Thống Dương Văn Minh phải ra lệnh cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng quân Cộng Sản Bắc Việt, chấm dứt 21 năm sinh tồn ngắn ngủi của chế độ tự do, dân chủ tại Miền Nam Việt Nam, các thành phần phản chiến và thân cộng trên thế giới, từ Hoa Kỳ cho tới Thụy Điển và luôn cả tại Miền Nam Việt Nam nữa, đều không che giấu được nỗi vui mừng, bởi vì ước vọng chấm dứt cuộc chiến tranh đẫm máu tại Việt Nam của họ đã thành sự thật, bất kể hậu quả của nền hòa bình đó có ra sao đi nữa cho dân tộc Việt Nam và thế giới sau này.
Nhưng chỉ vài ba tháng sau cái ngày 30 tháng Tư đen tối đó, sau khi các thành phần viên chức chế độ và sĩ quan quân đội cũ tại Miền Nam Việt Nam đã nằm gọn trong lao tù Cộng Sản, sau khi hàng trăm nghìn người dân có liên hệ tới chính quyền Sài Gòn đã bị tống khứ đến những vùng kinh tế mới, vừa hoang vu vừa khô cằn mà chẳng được nhà cầm quyền mới trợ cấp gì cả, và sau khi đất đai, nhà cửa và tài sản của các thành phần “ngụy quân, ngụy quyền” cũng như giới “tư sản mại bản” tại Miền Nam Việt Nam đã bị chính quyền cộng sản tại Hà Nội và các địa phương tịch thu, niềm vui của mọi người về nền hòa bình mới đến đó đã khởi sự lụi tàn. Bên cạnh những lợi ích to lớn mà biến cố ngày 30 tháng Tư năm 1975 đã thật sự mang lại cho “bên thắng cuộc,” gồm các nhà lãnh đạo và đảng viên Cộng Sản Việt Nam gạo cội, những thiệt hại còn to lớn hơn nữa đã giáng xuống đầu tuyệt đại đa số dân chúng Miền Nam Việt Nam, kèm theo những tổn thất phụ cho thế giới bên ngoài, đặc biệt là Hoa Kỳ, cùng các quốc gia tự do, dân chủ và yêu chuộng hòa bình tại Á Châu-Thái Bình Dương và trên khắp thế giới.
Việt Nam được gì và mất gì?
Chiến thắng của Cộng Sản Quốc Tế tại Miền Nam Việt Nam, dẫu sao, cũng đã thật sự chấm dứt cuộc đổ máu -- rõ ràng là hết sức vô ích -- và đem lại hòa bình trên một đất nước bị tàn phá nặng nề vì cuộc chiến Quốc-Cộng kéo dài. Thành thật mà nói, mặc dù phải trả bằng một cái giá quá đắt về sinh mạng và của cải vật chất, trong đó có hằng triệu chiến binh và thường dân ở cả hai miền Nam-Bắc, cộng với hơn 58,000 chiến binh Mỹ tử trận vì cuộc Chiến Tranh Việt Nam, đất nước Việt Nam, cuối cùng, cũng đã được thống nhất để trở thành một thực thể là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sau một thời gian dài bị chia cắt vì ý thức hệ Quốc Gia và Cộng Sản đối chọi nhau suốt 30 năm, từ 1945 đến 1975. Không những chính quyền Hà Nội hiếu chiến và dân chúng Miền Bắc có ước muốn thống nhất đất nước mà dân chúng Miền Nam Việt Nam, hiền hòa cũng có khát vọng đó, như được thể hiện qua nhạc phẩm “Bốn Ngả Đường Quê Hương” của Lê Minh Bằng: “Tôi có thân nhân ở bên đây/ Tôi có anh em ở bên kia/ Dù Nam, Bắc tôi vẫn mong nước Việt thanh bình”…
Món lợi thứ hai là, vì chiến tranh đã chấm dứt và đất nước đã thống nhất, Việt Nam có nhiều cơ hội hơn để phát huy tiềm năng kinh tế nhờ vào nguồn tài nguyên dồi dào của đất nước -- những vốn quý mà các sinh viên Nam Hàn và Nhật Bản du học tại Việt Nam vẫn ước ao sao cho đất nước họ có cái may mắn đó mà không được-- trong đó có các mỏ dầu hỏa và khí đốt với trữ lượng lớn tại thềm lục địa Miền Nam Việt Nam. Trong khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, hồi cuối năm 1974, dưới thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã khoan được mỏ dầu đầu tiên ngoài khơi Vũng Tàu mà chưa kịp khai thác thì Cộng Sản Hà Nội, từ thập niên 1980 tới nay, đã hút đến gần cạn kiệt thứ “vàng đen “ này ngoài khơi Việt Nam.
Các món lợi khác bao gồm lãnh thổ Việt Nam được nới rộng hơn, nhân lực và tài lực được tập trung hơn, ngành du lịch được phát triển rộng rãi hơn, và tiếng nói của Việt Nam được thế giới lắng nghe nhiều hơn, qua việc nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trở thành một thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc từ hồi tháng Chín năm 1977.
Tuy nhiên, những gì mà dân tộc Việt Nam bị mất mát sau cái chết tức tưởi của Việt Nam Cộng Hòa hồi năm 1975 xem ra còn to lớn và nặng nề hơn nhiều.
Thứ nhất, nền hòa bình hiện có tại Việt Nam chỉ là tình trạng ngưng tiếng súng trên chiến trường để những cuộc đổ máu lớn không xảy ra thường xuyên như trong thời chiến mà thôi. Nhưng hòa bình thực sự vẫn chưa có giữa người Việt và người Việt vì chủ trương chia rẽ về ý thức hệ Cộng Sản của giai cấp cầm quyền một bên và lòng yêu chuộng tự do, dân chủ của phần lớn dân chúng Việt Nam ở bên kia. Cho tới nay, “bên thắng cuộc” tại Việt Nam chưa hề thật tâm hoà giải với “bên thua cuộc”. Còn máu thì vẫn cứ đổ trong hòa bình -- dù là chỉ nhỏ giọt -- khi những thành phần bất đồng chính kiến trong nước, những tín đồ các tôn giáo, những người biểu tình chống Cộng Sản Trung Hoa và thảm họa môi trường, cùng những dân oan khiếu kiện đất đai bị tịch thu từ Đồng Tâm ở Miền Bắc cho tới Tân Bình ở Miền Nam, bị bắt bớ, tra tấn, và có khi còn bị đánh chết nữa, bên trong các đồn công an rải rác trên toàn quốc.
Thứ nhì, các cán bộ cao cấp trong chính quyền Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng việc khai thác tài nguyên gia tăng, từ dầu hỏa và bô-xít ở Miền Nam cũng như than đá ở Miền Bắc và gỗ quý, thú hiếm ở Miền Trung, để bỏ túi riêng, tạo nên nạn tham nhũng và lạm quyền tệ hại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc, với bằng chứng là những cuộc “đốt lò” của Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng từ vài ba năm nay đã lôi không biết bao nhiêu cán bộ tham ô của nhà nước ra tòa xét xử, để rồi cuối cùng các thủ phạm phải ngồi tù, từ vụ án Trịnh Xuân Thanh và Dương Chí Dũng cho tới những vụ án như EPCO-Minh Phụng, PMU18, in tiền Polymer, Vinashin, chia chác đất công ở Hải Phòng… Đó là chưa kể đến vụ 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa mà, vào những năm đầu tiên sau ngày “giải phóng” Sài Gòn, phe Cộng Sản từng vu cáo rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang theo ra ngoại quốc lúc đi lưu vong, nhưng sự thật thì số vàng đó đã bị quân chiến thắng Cộng Sản tẩu tán đâu mất hết, chứ không hề nộp vào ngân khố nhà nước.
Thứ ba, cũng nhờ đánh bại được Việt Nam Cộng Hòa, từ đó thu gom được nhiều tài nguyên và của cải của một đất nước thống nhất, từ bên trong hàng ngũ đảng Cộng Sản Việt Nam đã phất lên giai cấp “tư sản đỏ” giàu có chưa từng thấy. Trong khi các quan chức Cộng Sản tha hồ chiếm đoạt tài sản của kẻ bại trận, từ nhà cửa, đất đai cho tới ruộng vườn và tiền bạc thì giới “tư sản đỏ” này lại dựa vào các cơ sở kinh doanh và xí nghiệp công “lời ăn, lỗ nhà nước bù” mọc lên như nấm khắp nơi để tích lũy tài sản, dẫn đến hiện tượng giai cấp giàu có ở Việt Nam ngày nay ào ào gởi con cái đi du học cũng như đua nhau mua nhà cửa và đất đai tại Mỹ và một số quốc gia tư bản khác để phòng khi họ phải chạy khỏi Việt Nam vì đất nước, không có ai coi ngó, đã bị Cộng Sản Trung Hoa thôn tính.
Thứ tư, nghe lời xúi dại của quan thầy Bắc Kinh, nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã đưa môn Hoa ngữ vào chương trình học chính thức, đồng thời loại bỏ môn lịch sử ra khỏi học trình, khiến học sinh và trí thức thế hệ mới trong nước ngày nay không hề biết nước Tàu vốn là kẻ thù truyền kiếp chuyên thôn tính và đô hộ nước Việt nhiều lần, nhiều đợt, cộng chung lại có đến cả nghìn năm, mà chỉ biết rằng Cộng Sản Trung Hoa là đồng chí “môi hở, răng lạnh,” với gần một thế kỷ hy sinh giúp đỡ vô vị lợi và viện trợ rộng rãi cho Việt Nam để đánh Tây, đuổi Nhật, chống Mỹ, “giải phóng” Miền Nam. Dân tộc Việt Nam lại đang có nguy cơ mất đi chữ Quốc Ngữ quý báu vì nhà nước Cộng Sản đang ló mòi tìm cách xóa bỏ thứ chữ này để thay vào đó bằng một loại tiếng Việt mới do các văn nô trong nước phát minh, nhằm loại trừ ảnh hưởng còn sót lại của Tây phương trong nền văn hoá và văn minh Việt Nam mà quay về với thời kỳ sử dụng chữ Hán đã cáo chung từ hồi đầu thế kỷ trước.
Thứ năm, vì nền giáo dục nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có hai môn đức dục và công dân giáo dục tuyệt vời, đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản xóa đi, người Việt Nam ngày nay coi như không còn lễ, nghĩa, liêm, sỉ gì hết mà lại còn nhiễm thêm tính tham của người, vô nhân đạo và dửng dưng trước nỗi khổ đau của tha nhân nữa, thật đúng y như lời than thở của thi sĩ Tản Đà vào hồi đầu thế kỷ trước: “Văn minh Đông Á Trời thu sạch/ Đạo lý, luân thường đảo ngược ru?” Người Việt Nam ngày nay, cũng như bậc thầy Trung Hoa của họ, hễ đi ra ngoại quốc là trâng tráo phô bày các thói hư, tật xấu của mình, đến nỗi một số khu du lịch tại nhiều quốc gia khác đã phải treo các tấm biển bằng chữ Việt và chữ Hán, nhắc nhở và cảnh cáo họ giữ đúng các quy định của một xã hội văn minh.
Thế giới được gì và mất gì?
Trên thực tế, ngoài Cộng Sản Việt Nam ra, chỉ có Cộng Sản Trung Hoa là nước được hưởng lợi trực tiếp và trên quy mô lớn lao nhờ chiến thắng của Cộng Sản Việt Nam qua biến cố 30 tháng Tư năm 1975. Vì Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ, coi như Cộng Sản Trung Hoa không còn ai ngăn cản họ bành trướng lãnh thổ trên Biển Đông, mà họ gọi là Biển Nam Hoa (South China Sea), nơi họ phải trải qua một trận hải chiến kinh hoàng với nhiều thương vong mới chiếm được Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa hồi năm 1974. Trong khi đó, hồi năm 1988, các lực lượng Cộng Sản Trung Hoa đã không gặp sức kháng cự nào cả khi họ chỉ cần bắn chết 64 binh sĩ trú phòng của Hải Quân Cộng Sản Việt Nam, lúc đó đang án binh bất động theo lệnh trên, là họ đã chiếm được nhóm đảo Gạc Ma tại Quần Đảo Trường Sa rồi. Cộng Sản Liên Xô --mà ngày nay gọi là nước Nga -- chỉ hưởng chút lợi lộc là được ưu tiên sử dụng quân cảng nước sâu Cam Ranh làm căn cứ sau khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ (từ cuối thập niên 1970 cho tới đầu thập niên 1990), nhưng sau đó đã phải trả lại cho Cộng Sản Việt Nam vì không kham nổi món tiền thuê mướn quân cảng.
Các nước tự do, dân chủ khác tại Á Châu-Thái Bình Dương, đặc biệt là Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, và Úc, vốn là những đồng minh thân thiết của Việt Nam Cộng Hòa xưa kia, đã phải đổi giận làm vui mà chạy chọt để được bang giao và buôn bán với Cộng Sản Việt Nam. Nhưng để xâm nhập vào thị trường đông đúc gần 100 triệu người này tại Đông Nam Á vốn nổi tiếng có giá nhân công rẻ mạt, họ đã phải trả những khỏan hối lộ lớn lao cho các quan chức Cộng Sản đang vang danh thế giới về mặt tham nhũng.
Tây phương, bao gồm các quốc gia thuộc Liên Hiệp Âu Châu, Úc, và Hoa Kỳ, nhờ đưa bàn tay bao dung ra đón nhận người tị nạn Việt Nam trốn chạy chế độ Cộng Sản đến định cư sau ngày Sài Gòn sụp đổ, đã có thêm được một cộng đồng di dân sinh động, với những con người thông minh, chăm chỉ làm ăn và nhiều tài khéo, những kẻ thật sự đóng góp vào sự phú cường của quê hương mới, trong đó các nhà đạo diễn và diễn viên tài ba cùng những chính trị gia xuất sắc nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng, từ nghị sĩ, dân biểu và thống đốc tiểu bang cho tới phó thủ tướng chính phủ (như trường hợp của Phó Thủ Tướng Philipp Rosler, từ năm 2011 đến năm 2013, tại Cộng Hòa Liên Bang Đức). Riêng Mỹ quốc, nhờ cưu mang số người Việt định cư đông đảo nhất thế giới, đã có được tới 5 vị tướng gốc Việt tận tụy phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, gồm 2 vị thiếu tướng cùng 3 vị chuẩn tướng và phó đề đốc.
Nhưng sau cái chết của Việt Nam Cộng Hòa, ngoài chút tư lợi là xâm nhập được vào thị trường của một nước Việt Nam thống nhất, các quốc gia Tây phương thường phải cho nhiều hơn nhận, chỉ vì thể diện cường quốc khi chơi với một nước nhỏ như Cộng Sản Việt Nam. Họ cũng đã phải trả các khoản hối lộ lớn lao cho giới hữu trách Việt Nam, vốn là điều kiện cần và đủ cho mọi cuộc giao dịch với quốc gia này, nếu họ muốn được yên ổn làm ăn và tận dụng giá nhân công rẻ mạt trên đất nước đó. Nhưng có thể nói Hoa Kỳ là nước bị thua thiệt nhiều nhất trong mối quan hệ với Cộng Sản Bắc Việt sau khi họ trở thành “đối tác chiến lược” với Cộng Sản Việt Nam, thay vì Việt Nam Cộng Hòa xưa kia. Ngòai những tổn thất mà nước nào cũng phải hứng chịu để được phép buôn bán và kinh doanh tại Việt Nam, Hoa Kỳ còn phải luôn quan tâm đến nền an ninh của nước chủ nhà khi kẻ cựu thù này đang bị nước Cộng Sản đàn anh Trung Hoa o ép và đe dọa mọi mặt và mọi lúc, từ lấn chiếm biển đảo cho tới cấm tiệt Cộng Sản Việt Nam khai thác dầu mỏ, có khi ngay cả bên trong lãnh hải của Việt Nam nữa. Đã thế, hầu như năm nào Hoa Kỳ cũng phải cống nạp cho Cộng Sản Việt Nam một số vũ khí và tàu chiến, nói là để giúp Việt Nam gia tăng nền an ninh biển, lòng thầm mong Cộng Sản Việt Nam, có ngày, sẽ đổi ý mà dứt tình với đàn anh Cộng Sản Trung Hoa ưa bắt nạt rồi theo về phe với mình.
Nhưng đòn đớn đau nhất mà Hoa Kỳ đang lãnh đủ, khi chỉ vì đầu óc thiển cận và không biết hy sinh vì đại nghĩa mà người Mỹ đã để mất đi người bạn đồng minh thân thiết Việt Nam Cộng Hòa trong biến cố ngày 30 tháng Tư năm 1975, là giờ đây Hoa Kỳ coi như mất trắng Biển Nam Hoa, hải lộ huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương, vào tay Cộng Sản Trung Hoa sau khi cường quốc khổng lồ này tự vẽ ra cái gọi là “bản đồ 9 đoạn” chiếm gần hết vùng biển này, rồi cưỡng ép đàn em Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á phải chịu lép vế để cho họ độc quyền tô bồi và xây đắp các đảo hoang và bãi đá nơi đó thành các căn cứ quân sự khổng lồ, với máy bay, tàu chiến và tàu ngầm rần rần, rộ rộ, trực tiếp đe dọa quyền lưu thông hàng hải của các nước khác, không những chỉ là Mỹ, Nhật, Úc, Nam Hàn, Đài Loan… mà còn luôn cả Ấn Độ, một cường quốc tại Ấn Độ Dương với khối dân đông đúc vào hàng thứ nhì trên thế giới (chỉ sau Cộng Sản Trung Hoa), và nay đang là một đồng minh lớn của Hoa Kỳ sau khi Liên Bang Sô Viết sụp đổ hồi năm 1991.
Việt Nam được gì và mất gì?
Chiến thắng của Cộng Sản Quốc Tế tại Miền Nam Việt Nam, dẫu sao, cũng đã thật sự chấm dứt cuộc đổ máu -- rõ ràng là hết sức vô ích -- và đem lại hòa bình trên một đất nước bị tàn phá nặng nề vì cuộc chiến Quốc-Cộng kéo dài. Thành thật mà nói, mặc dù phải trả bằng một cái giá quá đắt về sinh mạng và của cải vật chất, trong đó có hằng triệu chiến binh và thường dân ở cả hai miền Nam-Bắc, cộng với hơn 58,000 chiến binh Mỹ tử trận vì cuộc Chiến Tranh Việt Nam, đất nước Việt Nam, cuối cùng, cũng đã được thống nhất để trở thành một thực thể là nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam sau một thời gian dài bị chia cắt vì ý thức hệ Quốc Gia và Cộng Sản đối chọi nhau suốt 30 năm, từ 1945 đến 1975. Không những chính quyền Hà Nội hiếu chiến và dân chúng Miền Bắc có ước muốn thống nhất đất nước mà dân chúng Miền Nam Việt Nam, hiền hòa cũng có khát vọng đó, như được thể hiện qua nhạc phẩm “Bốn Ngả Đường Quê Hương” của Lê Minh Bằng: “Tôi có thân nhân ở bên đây/ Tôi có anh em ở bên kia/ Dù Nam, Bắc tôi vẫn mong nước Việt thanh bình”…
Món lợi thứ hai là, vì chiến tranh đã chấm dứt và đất nước đã thống nhất, Việt Nam có nhiều cơ hội hơn để phát huy tiềm năng kinh tế nhờ vào nguồn tài nguyên dồi dào của đất nước -- những vốn quý mà các sinh viên Nam Hàn và Nhật Bản du học tại Việt Nam vẫn ước ao sao cho đất nước họ có cái may mắn đó mà không được-- trong đó có các mỏ dầu hỏa và khí đốt với trữ lượng lớn tại thềm lục địa Miền Nam Việt Nam. Trong khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, hồi cuối năm 1974, dưới thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đã khoan được mỏ dầu đầu tiên ngoài khơi Vũng Tàu mà chưa kịp khai thác thì Cộng Sản Hà Nội, từ thập niên 1980 tới nay, đã hút đến gần cạn kiệt thứ “vàng đen “ này ngoài khơi Việt Nam.
Các món lợi khác bao gồm lãnh thổ Việt Nam được nới rộng hơn, nhân lực và tài lực được tập trung hơn, ngành du lịch được phát triển rộng rãi hơn, và tiếng nói của Việt Nam được thế giới lắng nghe nhiều hơn, qua việc nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trở thành một thành viên của tổ chức Liên Hiệp Quốc từ hồi tháng Chín năm 1977.
Tuy nhiên, những gì mà dân tộc Việt Nam bị mất mát sau cái chết tức tưởi của Việt Nam Cộng Hòa hồi năm 1975 xem ra còn to lớn và nặng nề hơn nhiều.
Thứ nhất, nền hòa bình hiện có tại Việt Nam chỉ là tình trạng ngưng tiếng súng trên chiến trường để những cuộc đổ máu lớn không xảy ra thường xuyên như trong thời chiến mà thôi. Nhưng hòa bình thực sự vẫn chưa có giữa người Việt và người Việt vì chủ trương chia rẽ về ý thức hệ Cộng Sản của giai cấp cầm quyền một bên và lòng yêu chuộng tự do, dân chủ của phần lớn dân chúng Việt Nam ở bên kia. Cho tới nay, “bên thắng cuộc” tại Việt Nam chưa hề thật tâm hoà giải với “bên thua cuộc”. Còn máu thì vẫn cứ đổ trong hòa bình -- dù là chỉ nhỏ giọt -- khi những thành phần bất đồng chính kiến trong nước, những tín đồ các tôn giáo, những người biểu tình chống Cộng Sản Trung Hoa và thảm họa môi trường, cùng những dân oan khiếu kiện đất đai bị tịch thu từ Đồng Tâm ở Miền Bắc cho tới Tân Bình ở Miền Nam, bị bắt bớ, tra tấn, và có khi còn bị đánh chết nữa, bên trong các đồn công an rải rác trên toàn quốc.
Thứ nhì, các cán bộ cao cấp trong chính quyền Cộng Sản Việt Nam đã lợi dụng việc khai thác tài nguyên gia tăng, từ dầu hỏa và bô-xít ở Miền Nam cũng như than đá ở Miền Bắc và gỗ quý, thú hiếm ở Miền Trung, để bỏ túi riêng, tạo nên nạn tham nhũng và lạm quyền tệ hại chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc, với bằng chứng là những cuộc “đốt lò” của Tổng Bí Thư kiêm Chủ Tịch Nước Nguyễn Phú Trọng từ vài ba năm nay đã lôi không biết bao nhiêu cán bộ tham ô của nhà nước ra tòa xét xử, để rồi cuối cùng các thủ phạm phải ngồi tù, từ vụ án Trịnh Xuân Thanh và Dương Chí Dũng cho tới những vụ án như EPCO-Minh Phụng, PMU18, in tiền Polymer, Vinashin, chia chác đất công ở Hải Phòng… Đó là chưa kể đến vụ 16 tấn vàng của Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa mà, vào những năm đầu tiên sau ngày “giải phóng” Sài Gòn, phe Cộng Sản từng vu cáo rằng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã mang theo ra ngoại quốc lúc đi lưu vong, nhưng sự thật thì số vàng đó đã bị quân chiến thắng Cộng Sản tẩu tán đâu mất hết, chứ không hề nộp vào ngân khố nhà nước.
Thứ ba, cũng nhờ đánh bại được Việt Nam Cộng Hòa, từ đó thu gom được nhiều tài nguyên và của cải của một đất nước thống nhất, từ bên trong hàng ngũ đảng Cộng Sản Việt Nam đã phất lên giai cấp “tư sản đỏ” giàu có chưa từng thấy. Trong khi các quan chức Cộng Sản tha hồ chiếm đoạt tài sản của kẻ bại trận, từ nhà cửa, đất đai cho tới ruộng vườn và tiền bạc thì giới “tư sản đỏ” này lại dựa vào các cơ sở kinh doanh và xí nghiệp công “lời ăn, lỗ nhà nước bù” mọc lên như nấm khắp nơi để tích lũy tài sản, dẫn đến hiện tượng giai cấp giàu có ở Việt Nam ngày nay ào ào gởi con cái đi du học cũng như đua nhau mua nhà cửa và đất đai tại Mỹ và một số quốc gia tư bản khác để phòng khi họ phải chạy khỏi Việt Nam vì đất nước, không có ai coi ngó, đã bị Cộng Sản Trung Hoa thôn tính.
Thứ tư, nghe lời xúi dại của quan thầy Bắc Kinh, nhà nước Cộng Sản Việt Nam đã đưa môn Hoa ngữ vào chương trình học chính thức, đồng thời loại bỏ môn lịch sử ra khỏi học trình, khiến học sinh và trí thức thế hệ mới trong nước ngày nay không hề biết nước Tàu vốn là kẻ thù truyền kiếp chuyên thôn tính và đô hộ nước Việt nhiều lần, nhiều đợt, cộng chung lại có đến cả nghìn năm, mà chỉ biết rằng Cộng Sản Trung Hoa là đồng chí “môi hở, răng lạnh,” với gần một thế kỷ hy sinh giúp đỡ vô vị lợi và viện trợ rộng rãi cho Việt Nam để đánh Tây, đuổi Nhật, chống Mỹ, “giải phóng” Miền Nam. Dân tộc Việt Nam lại đang có nguy cơ mất đi chữ Quốc Ngữ quý báu vì nhà nước Cộng Sản đang ló mòi tìm cách xóa bỏ thứ chữ này để thay vào đó bằng một loại tiếng Việt mới do các văn nô trong nước phát minh, nhằm loại trừ ảnh hưởng còn sót lại của Tây phương trong nền văn hoá và văn minh Việt Nam mà quay về với thời kỳ sử dụng chữ Hán đã cáo chung từ hồi đầu thế kỷ trước.
Thứ năm, vì nền giáo dục nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có hai môn đức dục và công dân giáo dục tuyệt vời, đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản xóa đi, người Việt Nam ngày nay coi như không còn lễ, nghĩa, liêm, sỉ gì hết mà lại còn nhiễm thêm tính tham của người, vô nhân đạo và dửng dưng trước nỗi khổ đau của tha nhân nữa, thật đúng y như lời than thở của thi sĩ Tản Đà vào hồi đầu thế kỷ trước: “Văn minh Đông Á Trời thu sạch/ Đạo lý, luân thường đảo ngược ru?” Người Việt Nam ngày nay, cũng như bậc thầy Trung Hoa của họ, hễ đi ra ngoại quốc là trâng tráo phô bày các thói hư, tật xấu của mình, đến nỗi một số khu du lịch tại nhiều quốc gia khác đã phải treo các tấm biển bằng chữ Việt và chữ Hán, nhắc nhở và cảnh cáo họ giữ đúng các quy định của một xã hội văn minh.
Thế giới được gì và mất gì?
Trên thực tế, ngoài Cộng Sản Việt Nam ra, chỉ có Cộng Sản Trung Hoa là nước được hưởng lợi trực tiếp và trên quy mô lớn lao nhờ chiến thắng của Cộng Sản Việt Nam qua biến cố 30 tháng Tư năm 1975. Vì Việt Nam Cộng Hòa đã sụp đổ, coi như Cộng Sản Trung Hoa không còn ai ngăn cản họ bành trướng lãnh thổ trên Biển Đông, mà họ gọi là Biển Nam Hoa (South China Sea), nơi họ phải trải qua một trận hải chiến kinh hoàng với nhiều thương vong mới chiếm được Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa hồi năm 1974. Trong khi đó, hồi năm 1988, các lực lượng Cộng Sản Trung Hoa đã không gặp sức kháng cự nào cả khi họ chỉ cần bắn chết 64 binh sĩ trú phòng của Hải Quân Cộng Sản Việt Nam, lúc đó đang án binh bất động theo lệnh trên, là họ đã chiếm được nhóm đảo Gạc Ma tại Quần Đảo Trường Sa rồi. Cộng Sản Liên Xô --mà ngày nay gọi là nước Nga -- chỉ hưởng chút lợi lộc là được ưu tiên sử dụng quân cảng nước sâu Cam Ranh làm căn cứ sau khi Miền Nam Việt Nam sụp đổ (từ cuối thập niên 1970 cho tới đầu thập niên 1990), nhưng sau đó đã phải trả lại cho Cộng Sản Việt Nam vì không kham nổi món tiền thuê mướn quân cảng.
Các nước tự do, dân chủ khác tại Á Châu-Thái Bình Dương, đặc biệt là Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, và Úc, vốn là những đồng minh thân thiết của Việt Nam Cộng Hòa xưa kia, đã phải đổi giận làm vui mà chạy chọt để được bang giao và buôn bán với Cộng Sản Việt Nam. Nhưng để xâm nhập vào thị trường đông đúc gần 100 triệu người này tại Đông Nam Á vốn nổi tiếng có giá nhân công rẻ mạt, họ đã phải trả những khỏan hối lộ lớn lao cho các quan chức Cộng Sản đang vang danh thế giới về mặt tham nhũng.
Tây phương, bao gồm các quốc gia thuộc Liên Hiệp Âu Châu, Úc, và Hoa Kỳ, nhờ đưa bàn tay bao dung ra đón nhận người tị nạn Việt Nam trốn chạy chế độ Cộng Sản đến định cư sau ngày Sài Gòn sụp đổ, đã có thêm được một cộng đồng di dân sinh động, với những con người thông minh, chăm chỉ làm ăn và nhiều tài khéo, những kẻ thật sự đóng góp vào sự phú cường của quê hương mới, trong đó các nhà đạo diễn và diễn viên tài ba cùng những chính trị gia xuất sắc nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng, từ nghị sĩ, dân biểu và thống đốc tiểu bang cho tới phó thủ tướng chính phủ (như trường hợp của Phó Thủ Tướng Philipp Rosler, từ năm 2011 đến năm 2013, tại Cộng Hòa Liên Bang Đức). Riêng Mỹ quốc, nhờ cưu mang số người Việt định cư đông đảo nhất thế giới, đã có được tới 5 vị tướng gốc Việt tận tụy phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, gồm 2 vị thiếu tướng cùng 3 vị chuẩn tướng và phó đề đốc.
Nhưng sau cái chết của Việt Nam Cộng Hòa, ngoài chút tư lợi là xâm nhập được vào thị trường của một nước Việt Nam thống nhất, các quốc gia Tây phương thường phải cho nhiều hơn nhận, chỉ vì thể diện cường quốc khi chơi với một nước nhỏ như Cộng Sản Việt Nam. Họ cũng đã phải trả các khoản hối lộ lớn lao cho giới hữu trách Việt Nam, vốn là điều kiện cần và đủ cho mọi cuộc giao dịch với quốc gia này, nếu họ muốn được yên ổn làm ăn và tận dụng giá nhân công rẻ mạt trên đất nước đó. Nhưng có thể nói Hoa Kỳ là nước bị thua thiệt nhiều nhất trong mối quan hệ với Cộng Sản Bắc Việt sau khi họ trở thành “đối tác chiến lược” với Cộng Sản Việt Nam, thay vì Việt Nam Cộng Hòa xưa kia. Ngòai những tổn thất mà nước nào cũng phải hứng chịu để được phép buôn bán và kinh doanh tại Việt Nam, Hoa Kỳ còn phải luôn quan tâm đến nền an ninh của nước chủ nhà khi kẻ cựu thù này đang bị nước Cộng Sản đàn anh Trung Hoa o ép và đe dọa mọi mặt và mọi lúc, từ lấn chiếm biển đảo cho tới cấm tiệt Cộng Sản Việt Nam khai thác dầu mỏ, có khi ngay cả bên trong lãnh hải của Việt Nam nữa. Đã thế, hầu như năm nào Hoa Kỳ cũng phải cống nạp cho Cộng Sản Việt Nam một số vũ khí và tàu chiến, nói là để giúp Việt Nam gia tăng nền an ninh biển, lòng thầm mong Cộng Sản Việt Nam, có ngày, sẽ đổi ý mà dứt tình với đàn anh Cộng Sản Trung Hoa ưa bắt nạt rồi theo về phe với mình.
Nhưng đòn đớn đau nhất mà Hoa Kỳ đang lãnh đủ, khi chỉ vì đầu óc thiển cận và không biết hy sinh vì đại nghĩa mà người Mỹ đã để mất đi người bạn đồng minh thân thiết Việt Nam Cộng Hòa trong biến cố ngày 30 tháng Tư năm 1975, là giờ đây Hoa Kỳ coi như mất trắng Biển Nam Hoa, hải lộ huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương, vào tay Cộng Sản Trung Hoa sau khi cường quốc khổng lồ này tự vẽ ra cái gọi là “bản đồ 9 đoạn” chiếm gần hết vùng biển này, rồi cưỡng ép đàn em Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á phải chịu lép vế để cho họ độc quyền tô bồi và xây đắp các đảo hoang và bãi đá nơi đó thành các căn cứ quân sự khổng lồ, với máy bay, tàu chiến và tàu ngầm rần rần, rộ rộ, trực tiếp đe dọa quyền lưu thông hàng hải của các nước khác, không những chỉ là Mỹ, Nhật, Úc, Nam Hàn, Đài Loan… mà còn luôn cả Ấn Độ, một cường quốc tại Ấn Độ Dương với khối dân đông đúc vào hàng thứ nhì trên thế giới (chỉ sau Cộng Sản Trung Hoa), và nay đang là một đồng minh lớn của Hoa Kỳ sau khi Liên Bang Sô Viết sụp đổ hồi năm 1991.