~ NGUYỄN MẠNH TRINH ~
Ít có tác phẩm đầu tay nào mà được nhiệt liệt để ý như tác phẩm “Monkey Bridge” của tác giả Lan Cao. Mục điểm sách của New York Times với Michiko Kakutani “một tác phẩm gây nhiều ấn tượng cho người đọc. Bản đồ của hình tượng lưu vong và dành riêng cho địa lý của mất mát và hy vọng”. Chicago Tribune thì “Độc giả Tây phương đã thật may mắn có được những dâng hiến từ hình dạng mới mẻ của một tác phẩm khởi đi từ thời chiến tranh và đánh thức được nhịp đập của những trái tim Việt Nam sinh động”. Los Angeles Times thì “Trữ tình và đầy chất huyền ảo...”. The Boston Globe thì “nghệ thuật tinh xảo của Lan Cao nổi bật lên từ tiểu thuyết của cô. Gợi ý từ những chi tiết,chua cay từ những phác họa chân thực của những hứa hẹn trong cuộc chiến sống còn của người tị nạn...”.
Ít có tác phẩm đầu tay nào mà được nhiệt liệt để ý như tác phẩm “Monkey Bridge” của tác giả Lan Cao. Mục điểm sách của New York Times với Michiko Kakutani “một tác phẩm gây nhiều ấn tượng cho người đọc. Bản đồ của hình tượng lưu vong và dành riêng cho địa lý của mất mát và hy vọng”. Chicago Tribune thì “Độc giả Tây phương đã thật may mắn có được những dâng hiến từ hình dạng mới mẻ của một tác phẩm khởi đi từ thời chiến tranh và đánh thức được nhịp đập của những trái tim Việt Nam sinh động”. Los Angeles Times thì “Trữ tình và đầy chất huyền ảo...”. The Boston Globe thì “nghệ thuật tinh xảo của Lan Cao nổi bật lên từ tiểu thuyết của cô. Gợi ý từ những chi tiết,chua cay từ những phác họa chân thực của những hứa hẹn trong cuộc chiến sống còn của người tị nạn...”.
Tác phẩm đầu tay ấy xuất sắc như thế nào mà được nhắc nhở và khen tặng như vậy? “Monkey Bridge” của tác giả Lan Cao là câu chuyện của một cô gái tên Mai Nguyễn đã đáp chuyến máy bay không vận cuối cùng di tản khỏi Saigon ngày chấm dứt trận chiến. Và, ở đời sống xứ người, là cuộc chiến để tạo dựng lại những gì mất mát. Nhưng không phải với người tị nạn dễ dàng bỏ quên quá khứ. Lịch sử của dân tộc, của gia đình hay của riêng một cá nhân cũng đầy uẩn khúc mà những người trong cuộc vì lẽ này hay lý do nọ không muốn nhắc đến và cho là dĩ vãng đã qua, như hình hài đã chôn chặt thì không bao giờ đào xới lên nữa. Nhưng, với Lan Cao, cô là người đào bới lại chính những bí ẩn của gia đình cô và trong Monkey Bridge qua nhân vật Mai kể chuyện lại.
Tác phẩm là những điều khám phá thú vị nhưng cũng chua xót về những khác biệt văn hóa giữa xứ sở của nguồn gốc và xứ định cư. Cũng như, là một nhìn ngắm lại cái căn cước của người lưu lạc, hoặc mối tình cảm liên lạc giữa mẹ và con, cũng như cảm nhận về một cuộc chiến của một người Việt Nam về những vấn đề của người Việt Nam.
Như những nhận định và khen ngợi của những nhà phê bình có uy thế về “Monkey Bridge”. Đây là một tác phẩm có tính tự thuật nhưng đã mở rộng ra được những cánh cửa của lãnh địa ngăn cách giữa hai nền văn hóa. Kinh nghiệm thực của những người tị nạn sau chiến tranh đã có những bản sắc của cuộc cách mạng. Giống như người đi trên những cây cầu khỉ xây dựng bằng những cây tre mỏng manh, đi qua từ vùng quê xa xôi đến chốn thị thành, người kể chuyện đã như du hành giữa quá khứ và hiện tại. Đông và Tây, trong câu chuyện đã mở ngỏ để nhìn thấy những khác biệt có sẵn từ nhận thức của một cô bé lớn lên từ trong một xứ sở chiến tranh. Giữa cái bề mặt của cuộc sống, của đời người tị nạn mới tạo dựng ở “Little Saigòn” tiểu bang Virgina còn có những bề trái, của chính trị xen lẫn, của phản bội, của những bí mật gia đình, của những rắc rối của tình cảm và đạo đức.
Lan Cao sinh trưởng và lớn lên ở Việt Nam nhưng khi đến Hoa Kỳ ở tuổi mười ba và đã tự mình trưởng thành tạo thành một phương hướng vươn lên của chính cuộc đời mình. Hoc chính trị học, tốt nghiệp tại Mount Holyoke College. Sau đó học luật tại Yale University, tốt nghiệp rồi làm việc ở Tòa Thượng Thẩm Liên Bang. Rồi gia nhập vào một tổ hợp luật sư danh tiếng ở New York trước khi làm giáo sư về luật bang giao quốc tế tại Brooklyn Law School, rồi giáo sư của William & Mary Law School. Năm 2013, cô về dạy tại Fowler School of Law, đại học Chapman University ở thành phố Orange, California. Tác phẩm Monkey Bridge là tiểu thuyết bán tự thuật đầu tiên của cô viết bằng Anh ngữ về chân dung những người Việt Nam đến tị nạn ở Hoa Kỳ sau một cuộc chiến tranh để lại nhiều hậu quả về sau. Những người tị nạn ấy đã xác định căn cước của mình về một đất nước hiện giờ xa xôi và một đất nước mới mở ra nhiều điều khác lạ của một văn hóa khác, một đời sống khác.
Văn học hiện đại Hoa Kỳ có nhánh của những nhà văn di dân mà trong đó các nhà văn gốc Á Châu có sự góp mặt thí dụ như “The Joy Luck Club” của Amy Tan hay “The Woman Warrior: Memoir of a Girlhood among Ghosts” của Maxine Hong Kington… những tác phẩm này phản ảnh nền văn hóa của đất nước họ và nền văn hóa mà họ phải cố gắng hội nhập vào. Họ phải tranh đấu để sống còn và vượt qua những trở ngại trong đời sống mới với tất cả những nỗ lực.
Lan Cao cũng được kể là một trong những nhà văn gốc Việt Nam cùng với những người Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan,... viết về đề tài hội nhập này. Khác với nhân vật của Amy Tan là bốn người con gái của thế hệ người Trung Hoa đến định cư ở Hoa Kỳ sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Hoa Lục, nhân vật chính của Monkey Bridge là một cô gái tên Mai và bà mẹ tên Thanh đến định cư ở Hoa Kỳ sau ngày mà Sài Gòn thất thủ. Họ may mắn đáp chuyến máy bay cuối cùng trong khung cảnh của một thành phố đang cơn hỗn loạn.
Lan Cao đã chọn cho tác phẩm của mình nhiều không gian lạ và khác, đến tưởng như là đối nghịch với nhau. Tiểu thuyết bao gồm chuyện kể của hai người. Mai, một cô gái vào tuổi teen người Việt Nam ngươì đã rời khỏi Sài Gòn khi thành phố này thất thủ vào tay Cộng Sản những ngày cuối tháng Tư năm 1975. Và người kể chuyện thứ hai là bà Thanh, mẹ của Mai, người đã lo lắng cho Mai những tháng đầu tiên ở Hoa Kỳ.
Ba năm sau ngày đến Hoa Kỳ sinh sống, bà Thanh bị vào bệnh viện vì máu bị đóng cục ở mạch máu não và bị tê liệt nửa người. Bà luôn luôn gọi tên người cha là Baba Quan trong cả giấc ngủ. Theo như dự tính thì hai cha con bà Thanh và Baba Quan sẽ gặp nhau để cùng đi một chuyến bay đến Hoa Kỳ vào năm 1975 nhưng không biết vì một lý do nào mà người cha không đến nơi hẹn được. Vì thế sau này bà Thanh không bao giờ nguôi được sự hối tiếc về một sự kiện không may đã bỏ lại người cha ở Sài Gòn.
Mai phần thì lo lắng vì sức khỏe tồi tệ của người mẹ và cũng thấu hiểu được sự thất vọng của mẹ vì không gặp được ông ngoại, nên đã quyết định một chuyến đi nguy hiểm đến Canada với người bạn thân nhất là Bobbie mà ở nơi đó dự định sẽ dùng điện thoại gọi Baba Quan khi vượt qua biên giới và hy vọng sẽ mang được ông ngoại của Mai vào Hoa Kỳ trong chuyến đi này. Nhưng, dự định này không thành công... Mai rút lui ở những giây phút cuối cùng bởi vì không những cô sợ bị lệnh tống xuất của chính phủ Hoa Kỳ mà còn nhớ lại lời nói của cha cô mà cô nghe hàng ngày: “Một chuyến đi sai lầm, bài học lịch sử nguyên vẹn của đất nước đã thay đổi”. Ông nói câu này vì nhớ tới quyết định của người Hoa Kỳ đã bỏ quên những giao kết quan yếu của chiến tranh Việt Nam khi rút quân và ngưng viện trợ cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Bà mẹ của Mai, bà Thanh rời khỏi bệnh viện và tạm quyết định rời khỏi những dĩ vãng của Việt Nam cứ ám ảnh bà mãi. Bà bắt đầu tham gia vào những hoạt động xã hội và chính trị của cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Little Sài Gòn. Trong khi ấy, Mai ở thời gian nhàn rỗi của mùa hè trước khi bắt đầu khóa học ở đại học, đã bắt đầu rất hiếu kỳ để tìm hiểu những huyền thoại về ông ngoại và tò mò tọc mạch về những điều về Baba Quan từ người mẹ và những người hiểu biết khác như cô Bảy, người bạn thân của bà Thanh hay Uncle Michael, người bạn thân với cha của Mai và cũng là người mang Mai và gia đình rời khỏi Sài Gòn sang Hoa Kỳ năm 1975. Sau nhiều lúc tìm tòi để hiểu biết, Mai vẫn như bị nhiều sai lạc khi nhận định về con người của ông ngoại, dù cô đã được nghe và biết nhiều chi tiết căn bản hoặc những nhận xét phê bình. Cô cũng đã sai lầm khi tin tưởng rằng Uncle Michael sẽ giúp ông ngoại của cô đến được Hoa Kỳ.
Mai đi kiếm tìm những dữ kiện khó hiểu về người mẹ của mình và ông ngoại Baba Quan của quá khứ Việt Nam chiến tranh “những chi tiết sống động liên quan đến những lỗi lầm và những đổ vỡ, mỗi một chuyến đi và mỗi chuyến khởi hành đã mang Mai đến những bất ngờ của một thời đại trước”. Tình cờ, Mai đọc lá thơ mà mẹ cô định gửi cho cô, viết về những bí ẩn của gia đình mà chất bi thảm đã trở thành quen thuộc với người dân Việt Nam. Ở lá thư đó, cô mới hiểu tại sao Baba Quan không đến chỗ hẹn để ra đi khỏi Sài Gòn, những bí mật mà mọi người trong gia đình không bao giờ hé môi cho cô biết.
Khi còn là một tá điền, Baba Quan, người mà bà Thanh tưởng là cha mình, đã không thể đóng đủ địa tô cho người địa chủ là Uncle Khan nên đã cho vợ mình là bà Tuyết làm tình với người chủ điền giàu có này. Bà Tuyết sinh ra Thanh. Và sau đó, Baba Quan đã làm chủ mảnh đất này và không còn phải nộp địa tô nữa. Gia đình Uncle Khan nhận Thanh làm con nuôi và gởi cô lên học ở một trường đạo Thiên Chúa Giáo. Baba Quan sống trong căm thù và xấu hổ nên đã mưu toan trả thù người địa chủ giàu có này nhưng bất thành vì không có cơ hội để hạ thủ. Sau đó, khi chiến tranh Việt Nam khởi đầu, Baba Quan đi vào bưng làm Việt Cộng. Làng xã nơi Baba Quan ở là vùng oanh kích tự do nên cả gia đình phải dời về ấp chiến lược và rời bỏ mảnh đất của tổ tiên này. Nhưng Baba Quan vẫn còn ở lại để hoạt động cho Cộng Sản. Bà Tuyết, mẹ của Thanh bị chết trong một trận giao tranh. Và theo như tập tục của người Việt Nam, Thanh mang thi hài của người mẹ về chôn ở mảnh đất nơi quê nhà. Bên bờ sông trên con đường trở về nhà,Thanh đã gặp cảnh Baba Quan giết người địa chủ là cha ruột của mình. Sợ sệt và kinh hãi đã làm Thanh bỏ chạy và để lại thi hài của bà mẹ ở đằng sau. Và vì không thể chôn cất mẹ được hoàn toàn nên Thanh đã bị một vết thương ám ảnh mãi đến về sau và không thể nào quên lãng được dù đã qua sống ở một xứ sở mới là đất nước Hoa Kỳ.
Ở trong tác phẩm “Monkey Bridge”, Lan Cao đã nhìn đời sống Việt Nam trong chiến tranh qua những uẩn khúc bí mật của một gia đình. Và những bi thảm như vậy cũng thường thấy trong nhiều trường hợp khác. Qua câu chuyện kể của bà Thanh, một người đàn bà có học vấn có giáo dục để trở thành một người vợ và người vợ tốt như người mẹ chồng đã nhận xét. Nhưng ở một phía khác, khi Baba Quan đã cho vợ đi làm tình với người địa chủ vì tiền bạc như một hình thức đánh đĩ, rồi đi làm Việt Cộng và giết người địa chủ, thì bà Thanh và Uncle Michael lại che giấu để giữ lại hình ảnh tốt đẹp của người cha mà theo phong tục Việt Nam với truyền thống trọng nam khinh nữ thì người cha coi sóc lo lắng tất cả gia đình và được kính trọng.
Ngôn ngữ, trong “Monkey Bridge” đã được nhìn ngắm ở hai phía trái ngược. Một là ngăn cách trở ngại của ngôn ngữ. Và hai là, sức mạnh của ngôn ngữ. Trong lá thư bí mật mà bà Thanh gửi lại cho con, bà đã viết rằng Mai đã xấu hổ vì bà nói tiếng Anh không đúng “accent” mặc dù bà nói tiếng Việt và tiếng Pháp rất chuẩn. Và ở một phía khác, Mai đã nhìn thấy được uy lực của “tặng phẩm của ngôn ngữ”:
Ở trong thanh âm mới của tôi, thanh âm mà tôi thực sự phát ra từ cổ họng, là một uy lực kinh ngạc mới mẻ. Đối với mẹ tôi và những người láng giềng, tôi bắt đầu nắm giữ cả thế giới, một độc nhất với thế giới tiến bộ xán lạn. Giống như ông Adam, tôi đã như được Thượng Đế ban cho quyền năng chỉ danh tất cả các loài chim chóc ở trên trời và các loài thú vật trên cánh đồng. Quyền được chỉ danh, tôi nhanh chóng tìm kiếm được quyền giữ gìn ngôn ngữ và quyền thỉnh cầu thẩm quyền tiếng nói của thuần khiết không giả tạo.
Lan Cao đề cập trong tác phẩm về sự khác biệt văn hóa và hàng rào ngôn ngữ làm thành những khoảng trống trong gia đình tạo thành sự xa cách giữa cha mẹ và con cái. Mai đã nhìn ngắm người mẹ của mình như một người đã chết từ trong tâm hồn bởi vì bà không thể tự làm cho hoàn hảo và không thể tự điều chỉnh theo với xã hội bên ngoài. Vị trí giữa hai thế hệ có khoảng trống lớn như lời phê bình của David Cowart đã viết: “Mai nhìn những người định cư ở đây lớn tuổi hơn mình như những người tuổi trẻ và mẹ cô là một người hoán chuyển vai trò từ người mẹ sang người con”.
Trong “Monkey Bridge”, cũng đầy niềm hoài nhớ của những người Việt Nam lưu vong. Họ sống tập trung vào những khu vực như Little Sài Gòn và trong đời sống, trong câu chuyện họ toàn hướng về phía quê hương của họ. Sâu thẳm trong tâm hồn của họ là sự đối lập với chính quyền Cộng Sản hiện hữu trong nước. Họ mong một ngày chế độ ấy sẽ bị sụp đổ và họ sẽ hồi hương trở về sau ngày tươi đẹp ấy.
Lan Cao đã viết tác phẩm này bằng trái tim của người Việt Nam.
Cô sinh trưởng và lớn lên ở Việt Nam nhưng khi đến Hoa kỳ ở tuổi mười ba, đã nỗ lực để hội nhập vào dòng chính cả ở đời sống thưc lẫn đời sống văn chương. Khi được hỏi là thời giờ ở đâu mà làm được cả hai công việc thì cô trả lời: “Thực sự, đây là phương cách dễ dàng nhất trên thế giới. Với công việc của một người khoa bảng, tôi dành hết thời gian cho nó. Khi tôi viết văn, tôi có khuynh hướng viết vào buổi tinh sương, từ 4 giờ sáng đến 8 giờ sáng, trước khi tôi vào lớp dạy học”. Viết tiểu thuyết với Lan Cao không cần sự sửa soạn mọi thứ. Văn chương đến tự nhiên khi cô có những điều muốn ngỏ trong những thời kỳ khó khăn của cuộc sống. “Tôi bát đầu viết văn khi mẹ tôi trở bịnh nặng năm 1992... tôi cảm thấy mình là một người may mắn bởi vì tôi đã trả giá cho sự suy tưởng về những điều mà thật tình tôi thấy hiếu kỳ muốn tìm tòi để hiểu”.
Một nửa thế kỷ sau khi bắt đầu, chiến tranh Việt Nam đã được lưu dấu vết không nhòa trong tâm thức những người Hoa Kỳ. Lan Cao với một tiểu thuyết đầu tay có chất cổ điển đã được biết đến rộng rãi “bởi vì đã nối liền được hai thực thể đối nghịch nhau nhưng lại phải quan hệ với nhau là Hoa Kỳ và Việt Nam” (như nhận định của Isabel Allende). Với tác phẩm thứ hai và cũng là tiểu thuyết mới nhất, tác giả mang độc giả trở lại một cuộc chiến và làm nổi bật những dữ kiện mà lịch sử ở thế kỷ hai mươi chú tâm đến. Đời sống của một gia đình người Mỹ gốc Việt qua bao nhiêu biến chuyển đã được kể lại và mô tả một cách gián tiếp những hậu quả của chiến tranh một cách đầy nhân bản và hướng thượng.
Chân dung của người cha, một sĩ quan tư lệnh lữ đoàn nhảy dù của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã phải rời bỏ quê cha đất tổ. Người con gái tên Mai cũng chia sẻ thân phận lưu lạc với cha. Trong thời kỳ chiến tranh trong đời sống họ có những quan hệ thân tình với hai chiến binh Hoa Kỳ. Một là James một sĩ quan và một Cliff là cố vấn quân sự. Bốn chục năm sau, hai cha con Minh và Mai sinh sống ở vùng ngoại ô Virginia với thân phận của người tị nạn. Mai đã tự mình tìm kiếm ra một loạt những sự thật đau xót về những gì đã xảy ra cho gia đình cô trong những năm qua. Còn Minh thì đã phản ảnh cuộc đời lính trận của mình với đầy đủ những tính chất của tình yêu thương và trò bội phản đã nặng chĩu trong tâm kể từ khi mất nước năm 1975.
The Lotus and The Storm là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh và mô tả những vết thương gây ra từ cuộc chiến. Ở một tầm nhìn căn bản, là một cuốn biên niên sử ghi chép lại một cuộc sụp đổ của một xứ sở với những âm mưu chính trị và sự tàn phá của chém giết mà sự điều khiển và chỉ đạo chiến tranh chủ động từ nước ngoài. Nhưng ở một tầm vóc nhân bản khác, là một câu chuyện thân thương sâu sắc giữa tình yêu và niềm khát khao mong đợi, giữa dối trá và phản bội, giữa đau buồn và cuồng dại. Nhưng, ở tổng quan tất cả, là sự mất mát to lớn của cả một đất nước với dấu vết sâu xa đã hằn dấu lên cuộc sống của những đứa trẻ, trong những nhắc nhở thì thầm trải qua những không gian và thời gian hiện hữu trong đời.
Tiểu thuyết này kể lại chuyện của một gia đình đã sống trong những quan hệ không thể tách rời với nỗi bi thảm khi thành phố Sài Gòn thất thủ. Một người là chiến binh lừng lẫy hào quang nay yếu đuối tàn tạ trong căn nhà của mình ở ngoại ô Virginia của thủ đô Washington DC với đứa con gái tên Mai đã lớn lên từ một phố nhỏ ở Chợ Lớn thuộc thành phố Sài Gòn.
Tác phẩm mở đầu từ năm 1963 từ một khu vực buôn bán tấp nập ở vùng Chợ Lớn. Việt Nam đang ở trong một thời điểm lịch sử xoay chuyển. Dưới sự chăm sóc tận tình của người vú trung thành người Trung Hoa, cô bé Mai sống yên ổn và ngây thơ với tuổi trẻ trong trắng không bị ảnh hưởng từ những yếu tố của thế giới bên ngoài. Cô có những cảm nghiệm hiện thực từ cuộc sống với chị em trong gia đình, với những người thân yêu và những bạn hữu trung thực. Rụt rè nhút nhát và ngại ngùng trước sự phiêu lưu, Mai đã tự mình tạo ra sự hiếu kỳ từ những gợi ý và thúc đẩy của người thân thuộc lớn tuổi hơn. Chị cô và cô tò mò suy nghĩ về thế giới bí ẩn và tìm kiếm những cấm điều mông lung của những ngã đường quanh co của những con phố Trung Hoa lân cận. Các cô cũng kết thân với người lính Hoa Kỳ cùng ưa thích và say mê điệu nhạc “rock and roll” quyến rũ. Có những buổi tối đặc biệt, bà mẹ cô đọc chuyện Ả Rập Ngàn Lẻ Một Đêm hoặc những truyện khác để đọc sách cho trẻ thơ trước khi vào giấc ngủ. Đôi khi, người cậu em của mẹ cô, là một Việt Cộng, đến thăm và gia đình lại phải tranh luận tuy rất nhân bản nhưng quyết liệt về chủ trương bài ngoại của Việt Cộng, đặc biệt là chống Mỹ và chống lại những người Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Bất kể cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt và sự phân cách trong gia tộc, mọi người vẫn sống bình thường cho đến lúc những sự kiện nổ bùng và làm tan nát cả gia đình và đất nước.
Câu chuyện của cha cô bé Mai, một chiến binh của QLVNCH, bắt đầu từ năm 2006 khi nước Mỹ đang ở trong sự mạo hiểm của một cuộc chinh chiến lâu dài khác. Từ giường ngủ, ông hồi tưởng lại những trận đánh mà ông tham dự ở Sài Gòn, Cambodia, Huế, như đã bật TV để xem những cảnh tượng chiến tranh ở Baghdad và Basra. Nỗi đau xưa cũ trở lại. Và ông như bị trôi đi trong ký ức đột nhiên nhớ lại về một thời gian đã qua với niềm thương nhớ người vợ yêu dấu và với một đất nước quốc gia của mình. Ngày lại ngày ông lần theo mối chỉ của cuộc đời ông theo những khoảng thời gian từ cuộc binh biến thảm sát hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, rồi những sự kiện xảy ra ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964 để dẫn đến cuộc tham dự chính thức vào cuộc chiến đổ quân Mỹ vào Việt Nam vào năm 1965. Rồi biến cố tết Mậu Thân năm 1968, rồi hòa ước Paris năm 1973 đến biến động bi thảm của chế độ chính phủ Miền Nam sụp đổ năm 1975. Chưa hết, những hậu quả sau cuộc chiến với sự chiến thắng của Cộng Sản đã tạo thành làn sóng người vượt biển thử thách với nguy hiểm thoát ra nước ngoài tiếp theo sau cuộc rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Mỗi sự kiện được ngắt quãng bằng những mất mát cá nhân không thể đền bù được. Những điều ấy là câu chuyện của mất mát ngây thơ, của sự thất hứa tồi tệ, của những bất ngờ xoay đổi giữa tình yêu và cuộc chiến.
Ký ức của người cha kể luôn cả những ngày hiện tại ở Virginia rồi trở lại quãng thời gian của ông ở Việt Nam. Mai, mà cuộc đời bắt đầu từ thập niên 1960 ở Việt Nam, đi tới khoảng thời gian mà cô sống tại Hoa Kỳ sau khi Miền Nam đã bị Cộng Sản Bắc Việt xâm chiếm. Cả hai người, cha và con cùng sống những ngày hiện tại của năm 2006 tại Virginia và vùng phụ cận Little Sài Gòn. Tại nơi đây cả hai cha con tiếp tục hàng ngày chiến đấu với nỗi đau thương cũ và cố gắng bắt đầu cuộc sống mới trong im lặng và chịu đựng. Cả hai ngậm ngùi với sự tan vỡ bằng hai phương cách khác nhau. Một người không thể quay trở lại quá khứ nhưng ở cuối cuộc đời bằng cách nào đó tìm kiếm được sự tha thứ - tự mình làm tốt cho mình như cho những người khác. Một người khác cố gắng đến những mảnh vụn quá khứ để chạy thẳng tới phía trước với một nửa cuộc đời dường như phản ảnh giấc mơ Hoa Kỳ. Trong kết luận The Lotus and The Storm là câu chuyện của những người đã tái xây dựng lại cuộc đời của họ trong hậu quả của chiến tranh và sự phản bội thất hứa. Bất kể nỗi đau và sự mất mát, họ tìm trong nội tâm sức mạnh chất chứa những sinh lực để tha thứ, yêu thương và sống thực.
The Lotus and The Storm có ý thức tiến về tương lai phía trước với bố cục tràn đầy những hành động nhưng cũng chan chứa những phản ảnh để thế nào mỗi một người có thể tìm được một con đường đi tới vượt qua những bất ưng của đời sống. Đó là kiếm tìm một tổ ấm của mái nhà yên bình.
Bài phỏng vấn của Eric Nguyễn với tác giả Lan Cao đã cho độc giả nhiều chi tiết lý thú, cũng như những cảm nhận độc đáo từ thân phận của người tị nạn. Thí dụ như câu hỏi:
“Cô đã được huấn luyện để thành luật sư. Và là giáo sư giảng dạy tại Dale E. Fowler School tại Chapman University. Cô luôn luôn muốn làm người viết văn không? Hay chỉ đam mê công việc cầm bút sau này?” Và câu trả lời:
Tôi thích đọc sách từ thuở còn là một cô bé nhỏ xíu. Ở Việt Nam, tôi đã bị lôi cuốn vào truyện Ả Rập Ngàn Lẻ Một Đêm và những bộ truyện kiếm hiệp của nhà văn kim Dung như Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long, Thần Điêu Đại Hiệp. Tất cả với bố cục và tình tiết hấp dẫn đã làm tôi thích thú với những nhận xét thí dụ như trong truyện Ngàn Lẻ Một Đêm nhờ năng lực lôi cuốn người nghe mà có thể cứu sống được sinh mạng của người kể chuyện. Tôi cũng đã giới thiệu những tiểu thuyết Anh ngữ trong chương trình dạy những lớp AP English của tôi. Tôi yêu thích James Joyce với A Portrait of the Artist as a Young Man, bởi vì tác phẩm này đã làm tôi khám phá được tiến trình của đời người với một truyền thống văn hóa không cưỡng chế lại nội dung cuốn sách. Như thế tôi yêu thích viết văn từ tôi yêu thích đọc sách.
Ở đại học, tôi chọn học những lớp mà sinh viên được khuyến khích đi sâu vào nội dung, để tự mình khám phá ra được những ẩn tàng của thế giới bên trong cùng một lúc với sự quan sát bức tranh phác họa chiều rộng bên ngoài của chính trị, kinh tế, lịch sử, xã hội. Giáo sư khuyến khích chúng tôi viết nhật ký hàng ngày và viết để ghi chép lại những tác dụng hỗ tương giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài. Bà giới thiệu với chúng tôi tác phẩm The Bluest Eye của Toni Morrison. Tôi yêu quí sách vở. Chúng tôi cũng đọc Jung và thơ của Adrienne Rich để đào xới trên những hoang tàn đổ nát cũng y hệt như lao vào thế giới của bóng tối chập chùng những điều chưa hiểu để làm nổi bật lên một nhân dáng nhiều sáng tạo và hiểu biết. Viết đối với tôi là bắt đầu học hỏi cách sống và cách yêu thương trong hình bóng chính mình. Sự bất toàn ở đây có thể nhìn thấy và viết về điều ấy. Viết là phong thái tự nhiên là một phần của bản ngã chính tôi và thật là cần thiết cho đời sống.
Tôi cũng yêu viết sách về luật và tôi thích gộp chung cách viết tiểu thuyết vào trong những công trình giáo dục khoa bảng khi dạy học và cầm bút. Khi tôi làm việc về luật ở NYC sau khi tốt nghiệp tiến sĩ luật, vấn đề Việt Nam và kinh tế chỉ huy được chuyển đổi thành kinh tế thị trường đã làm tôi quan tâm. Sự kiện ấy xảy ra sau khi Liên Bang Nga Xô Viết tan rã và Bức Tường Bá Linh bị sụp đổ. Tôi nhìn thấy hiệu quả của luật pháp trong công việc tái tạo nền móng xã hội, biểu dương tự do cá nhân và khuyến khích phát triển kinh tế và chính trị trên căn bản hòa hợp quốc tế và giao dịch. Đó là chủ tâm khảo cứu về lợi ích trong đời sống giáo dục khoa bảng chính thức của tôi.
Trả lời câu hỏi khác của Eric Nguyễn: “Viết tiểu thuyết và viết sách luật, theo tôi thì ít nhất cũng là hai công việc khác nhau, đặc biệt là lãnh vực và mục đích của kinh tế và phát triển chính trị. Còn trong lãnh vực sáng tác, nhiều đề tài đã qua đi trong đầu. Cô đã là một luật sư giống như là một người viết văn như thế nào? Khi là luật sư và với kiến thức khoa bảng đã dạy cô điều gì khi viết văn?” Câu trả lời của Lan Cao:
Vâng, đó là hai lãnh vực khác nhau. Viết sách về luật, viết những nhận định duyệt xét trong sách giáo khoa, rất khác biệt với viết tiểu thuyết sáng tác. Viết về luật, phần đông là nghiên cứu, thật nhiều nghiên cứu để tìm kiếm và rồi chuyển đổi những điều ấy thành những bài luận thuyết. Mà nghiên cứu là ở từ những điều ở ngoại tại như sách vở, những đề mục, những cuộc phỏng vấn. Và tiến trình nghiên cứu thì chồng chất những dữ kiện phải lựa chọn để xác định được những mảnh nhỏ của dữ kiện dư thừa vượt quá giới hạn của chân lý. Với cách viết tiểu thuyết, tôi khởi đi từ hình bóng nội tại của chính mình và những mảnh vụn của chính tôi rồi tôi nói với phong cách hiếm họa liên quan tới nghiên cứu. Tôi không thường xuyên viết về Việt Nam, tuy nhiên có khi trong lúc thay đổi đề mục tôi không thấy cách viết của mình dính dáng nhiều đến sự tìm tòi khảo cứu (bởi vì tôi đã làm công việc khảo cứu khi viết sách luật). Với tiểu thuyết tôi đã dàn dựng bố cục đi xa ngoài nguồn gốc của trải nghiệm và quan sát của tôi.
Dĩ nhiên, khi dạy học tôi áp dụng lối viết rất khác biệt với phương cách viết tiểu thuyết. Quan hệ giữa thầy giáo / học trò đều ở trong tiến trình ảnh hưởng lẫn nhau trong khi cầm bút viết văn trên căn bản là cách thế cô đơn, Rồi tôi thích thay đổi những đòi hỏi nhiều ảnh hưởng với nhau và nhiều dữ kiện ngoại tại bên ngoài. Kết quả tức thì, bạn dạy học trong lóp, bạn truyền đạt nội dung tư tưởng, bạn đẩy học trò đặt câu hỏi về những giả thuyết, bạn ca tụng sự phê bình lý luận. Và khi rời khỏi lớp học về nhà, bạn cảm thấy hài lòng với những điều đã áp dụng. Còn viết để sáng tác, thì cô đơn và nhiều mơ hồ trong chủ đích. Có khi, viết mà chẳng biết mình sẽ đi về đâu, cho hôm nay hay ngày mai…
Eric hỏi: “Cô nói cầm bút viết là hòa hợp giữa những điều tự hiểu biết và cái bóng của chính mình. Trong The Monkey Bridge tính chất ấy được sử dụng rất nhiều. Thực vậy từ tính chất của bà mẹ tên Thanh đã dùng văn chương để ghi lại từng thời kỳ theo lối biên niên của cá nhân bà để nói với cô con gái về sự thật trong lịch sử đời riêng. Cô có nghĩ rằng viết và kể lại chuyện đời là rất quan trọng đối với những sắc dân thiểu số như người tị nạn Mỹ gốc Việt? Nơi chốn nào cô nghĩ việc cầm bút thích hợp để tạo thành sự đồng nhất của cộng đồng?” Lan Cao trả lời:
Tôi nghĩ viết và kể lại những câu chuyện rất quan trọng cho tất cả những ai cần thiết tới (thí dụ như một người suy nghĩ về Thoreau với Walden hay May Sarton với Journal of a Solitude). Người viết có thể viết với chính hành trình của họ. Nhưng tôi nghĩ viết và kể chuyện quan trọng với người di dân ở những cách thế khác biệt nhau (mặc dù tất nhiên người cầm bút viết cho họ và cho những hành trình của họ). Với người di dân, viết có thể với mục đích để xây dựng một cộng đồng và sáng tạo ra một dàn hợp xướng với những âm vọng quan yếu để cộng đồng này hiểu biết cộng đồng khác và cho thế giới bên ngoài hiểu được họ chân thực. Với bề ngoài là hình thức của một nhà văn di dân, tôi viết với tâm cảm của một người đã trải nghiệm qua những biến cố của cuộc sống mặc dù tôi nghĩ một phần tôi tin tưởng rằng tất cả những người cầm bút viết về cuộc hành trình của người di dân với sự trân trọng cách riêng.
Với nhà văn Mỹ gốc Việt ở một thế hệ lớn lên ở xứ sở này, Việt Nam và cuộc chiến tranh đã liên tục là một phần tử của đời sống chúng tôi. Đó là đất nước (earth and water) và không thể tránh khỏi được phạm trù ấy. Và khi có một người nhìn thấy Việt Nam và cuộc chiến tranh được đề cập đến trong phương cách loại trừ ra khỏi chính cá nhân chúng tôi và những trải nghiệm của chúng tôi. Thì việc cầm bút đã ở trong nhiều kích thước khác nhau. Đó là cách viết của nội tâm và cách viết của ngoại tại. Hay là cách viết cho mình và cách viết cho người khác. Đó là cả hai viết và chuyển dịch. Khi mà yếu tố viết cho người khác quá nhiều thì sự cân bằng sẽ không còn và công việc ấy không còn tác dụng. Như thế, cần phải cân bằng trong khi viết.
Tất cả những câu chuyện (cũng như lịch sử) đều phải có tiêu điểm để nhìn ngắm và quan sát. Người viết văn Mỹ gốc Việt cũng ở trong trường hợp ấy…
Tác phẩm là những điều khám phá thú vị nhưng cũng chua xót về những khác biệt văn hóa giữa xứ sở của nguồn gốc và xứ định cư. Cũng như, là một nhìn ngắm lại cái căn cước của người lưu lạc, hoặc mối tình cảm liên lạc giữa mẹ và con, cũng như cảm nhận về một cuộc chiến của một người Việt Nam về những vấn đề của người Việt Nam.
Như những nhận định và khen ngợi của những nhà phê bình có uy thế về “Monkey Bridge”. Đây là một tác phẩm có tính tự thuật nhưng đã mở rộng ra được những cánh cửa của lãnh địa ngăn cách giữa hai nền văn hóa. Kinh nghiệm thực của những người tị nạn sau chiến tranh đã có những bản sắc của cuộc cách mạng. Giống như người đi trên những cây cầu khỉ xây dựng bằng những cây tre mỏng manh, đi qua từ vùng quê xa xôi đến chốn thị thành, người kể chuyện đã như du hành giữa quá khứ và hiện tại. Đông và Tây, trong câu chuyện đã mở ngỏ để nhìn thấy những khác biệt có sẵn từ nhận thức của một cô bé lớn lên từ trong một xứ sở chiến tranh. Giữa cái bề mặt của cuộc sống, của đời người tị nạn mới tạo dựng ở “Little Saigòn” tiểu bang Virgina còn có những bề trái, của chính trị xen lẫn, của phản bội, của những bí mật gia đình, của những rắc rối của tình cảm và đạo đức.
Lan Cao sinh trưởng và lớn lên ở Việt Nam nhưng khi đến Hoa Kỳ ở tuổi mười ba và đã tự mình trưởng thành tạo thành một phương hướng vươn lên của chính cuộc đời mình. Hoc chính trị học, tốt nghiệp tại Mount Holyoke College. Sau đó học luật tại Yale University, tốt nghiệp rồi làm việc ở Tòa Thượng Thẩm Liên Bang. Rồi gia nhập vào một tổ hợp luật sư danh tiếng ở New York trước khi làm giáo sư về luật bang giao quốc tế tại Brooklyn Law School, rồi giáo sư của William & Mary Law School. Năm 2013, cô về dạy tại Fowler School of Law, đại học Chapman University ở thành phố Orange, California. Tác phẩm Monkey Bridge là tiểu thuyết bán tự thuật đầu tiên của cô viết bằng Anh ngữ về chân dung những người Việt Nam đến tị nạn ở Hoa Kỳ sau một cuộc chiến tranh để lại nhiều hậu quả về sau. Những người tị nạn ấy đã xác định căn cước của mình về một đất nước hiện giờ xa xôi và một đất nước mới mở ra nhiều điều khác lạ của một văn hóa khác, một đời sống khác.
Văn học hiện đại Hoa Kỳ có nhánh của những nhà văn di dân mà trong đó các nhà văn gốc Á Châu có sự góp mặt thí dụ như “The Joy Luck Club” của Amy Tan hay “The Woman Warrior: Memoir of a Girlhood among Ghosts” của Maxine Hong Kington… những tác phẩm này phản ảnh nền văn hóa của đất nước họ và nền văn hóa mà họ phải cố gắng hội nhập vào. Họ phải tranh đấu để sống còn và vượt qua những trở ngại trong đời sống mới với tất cả những nỗ lực.
Lan Cao cũng được kể là một trong những nhà văn gốc Việt Nam cùng với những người Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan,... viết về đề tài hội nhập này. Khác với nhân vật của Amy Tan là bốn người con gái của thế hệ người Trung Hoa đến định cư ở Hoa Kỳ sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Hoa Lục, nhân vật chính của Monkey Bridge là một cô gái tên Mai và bà mẹ tên Thanh đến định cư ở Hoa Kỳ sau ngày mà Sài Gòn thất thủ. Họ may mắn đáp chuyến máy bay cuối cùng trong khung cảnh của một thành phố đang cơn hỗn loạn.
Lan Cao đã chọn cho tác phẩm của mình nhiều không gian lạ và khác, đến tưởng như là đối nghịch với nhau. Tiểu thuyết bao gồm chuyện kể của hai người. Mai, một cô gái vào tuổi teen người Việt Nam ngươì đã rời khỏi Sài Gòn khi thành phố này thất thủ vào tay Cộng Sản những ngày cuối tháng Tư năm 1975. Và người kể chuyện thứ hai là bà Thanh, mẹ của Mai, người đã lo lắng cho Mai những tháng đầu tiên ở Hoa Kỳ.
Ba năm sau ngày đến Hoa Kỳ sinh sống, bà Thanh bị vào bệnh viện vì máu bị đóng cục ở mạch máu não và bị tê liệt nửa người. Bà luôn luôn gọi tên người cha là Baba Quan trong cả giấc ngủ. Theo như dự tính thì hai cha con bà Thanh và Baba Quan sẽ gặp nhau để cùng đi một chuyến bay đến Hoa Kỳ vào năm 1975 nhưng không biết vì một lý do nào mà người cha không đến nơi hẹn được. Vì thế sau này bà Thanh không bao giờ nguôi được sự hối tiếc về một sự kiện không may đã bỏ lại người cha ở Sài Gòn.
Mai phần thì lo lắng vì sức khỏe tồi tệ của người mẹ và cũng thấu hiểu được sự thất vọng của mẹ vì không gặp được ông ngoại, nên đã quyết định một chuyến đi nguy hiểm đến Canada với người bạn thân nhất là Bobbie mà ở nơi đó dự định sẽ dùng điện thoại gọi Baba Quan khi vượt qua biên giới và hy vọng sẽ mang được ông ngoại của Mai vào Hoa Kỳ trong chuyến đi này. Nhưng, dự định này không thành công... Mai rút lui ở những giây phút cuối cùng bởi vì không những cô sợ bị lệnh tống xuất của chính phủ Hoa Kỳ mà còn nhớ lại lời nói của cha cô mà cô nghe hàng ngày: “Một chuyến đi sai lầm, bài học lịch sử nguyên vẹn của đất nước đã thay đổi”. Ông nói câu này vì nhớ tới quyết định của người Hoa Kỳ đã bỏ quên những giao kết quan yếu của chiến tranh Việt Nam khi rút quân và ngưng viện trợ cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Bà mẹ của Mai, bà Thanh rời khỏi bệnh viện và tạm quyết định rời khỏi những dĩ vãng của Việt Nam cứ ám ảnh bà mãi. Bà bắt đầu tham gia vào những hoạt động xã hội và chính trị của cộng đồng người Mỹ gốc Việt ở Little Sài Gòn. Trong khi ấy, Mai ở thời gian nhàn rỗi của mùa hè trước khi bắt đầu khóa học ở đại học, đã bắt đầu rất hiếu kỳ để tìm hiểu những huyền thoại về ông ngoại và tò mò tọc mạch về những điều về Baba Quan từ người mẹ và những người hiểu biết khác như cô Bảy, người bạn thân của bà Thanh hay Uncle Michael, người bạn thân với cha của Mai và cũng là người mang Mai và gia đình rời khỏi Sài Gòn sang Hoa Kỳ năm 1975. Sau nhiều lúc tìm tòi để hiểu biết, Mai vẫn như bị nhiều sai lạc khi nhận định về con người của ông ngoại, dù cô đã được nghe và biết nhiều chi tiết căn bản hoặc những nhận xét phê bình. Cô cũng đã sai lầm khi tin tưởng rằng Uncle Michael sẽ giúp ông ngoại của cô đến được Hoa Kỳ.
Mai đi kiếm tìm những dữ kiện khó hiểu về người mẹ của mình và ông ngoại Baba Quan của quá khứ Việt Nam chiến tranh “những chi tiết sống động liên quan đến những lỗi lầm và những đổ vỡ, mỗi một chuyến đi và mỗi chuyến khởi hành đã mang Mai đến những bất ngờ của một thời đại trước”. Tình cờ, Mai đọc lá thơ mà mẹ cô định gửi cho cô, viết về những bí ẩn của gia đình mà chất bi thảm đã trở thành quen thuộc với người dân Việt Nam. Ở lá thư đó, cô mới hiểu tại sao Baba Quan không đến chỗ hẹn để ra đi khỏi Sài Gòn, những bí mật mà mọi người trong gia đình không bao giờ hé môi cho cô biết.
Khi còn là một tá điền, Baba Quan, người mà bà Thanh tưởng là cha mình, đã không thể đóng đủ địa tô cho người địa chủ là Uncle Khan nên đã cho vợ mình là bà Tuyết làm tình với người chủ điền giàu có này. Bà Tuyết sinh ra Thanh. Và sau đó, Baba Quan đã làm chủ mảnh đất này và không còn phải nộp địa tô nữa. Gia đình Uncle Khan nhận Thanh làm con nuôi và gởi cô lên học ở một trường đạo Thiên Chúa Giáo. Baba Quan sống trong căm thù và xấu hổ nên đã mưu toan trả thù người địa chủ giàu có này nhưng bất thành vì không có cơ hội để hạ thủ. Sau đó, khi chiến tranh Việt Nam khởi đầu, Baba Quan đi vào bưng làm Việt Cộng. Làng xã nơi Baba Quan ở là vùng oanh kích tự do nên cả gia đình phải dời về ấp chiến lược và rời bỏ mảnh đất của tổ tiên này. Nhưng Baba Quan vẫn còn ở lại để hoạt động cho Cộng Sản. Bà Tuyết, mẹ của Thanh bị chết trong một trận giao tranh. Và theo như tập tục của người Việt Nam, Thanh mang thi hài của người mẹ về chôn ở mảnh đất nơi quê nhà. Bên bờ sông trên con đường trở về nhà,Thanh đã gặp cảnh Baba Quan giết người địa chủ là cha ruột của mình. Sợ sệt và kinh hãi đã làm Thanh bỏ chạy và để lại thi hài của bà mẹ ở đằng sau. Và vì không thể chôn cất mẹ được hoàn toàn nên Thanh đã bị một vết thương ám ảnh mãi đến về sau và không thể nào quên lãng được dù đã qua sống ở một xứ sở mới là đất nước Hoa Kỳ.
Ở trong tác phẩm “Monkey Bridge”, Lan Cao đã nhìn đời sống Việt Nam trong chiến tranh qua những uẩn khúc bí mật của một gia đình. Và những bi thảm như vậy cũng thường thấy trong nhiều trường hợp khác. Qua câu chuyện kể của bà Thanh, một người đàn bà có học vấn có giáo dục để trở thành một người vợ và người vợ tốt như người mẹ chồng đã nhận xét. Nhưng ở một phía khác, khi Baba Quan đã cho vợ đi làm tình với người địa chủ vì tiền bạc như một hình thức đánh đĩ, rồi đi làm Việt Cộng và giết người địa chủ, thì bà Thanh và Uncle Michael lại che giấu để giữ lại hình ảnh tốt đẹp của người cha mà theo phong tục Việt Nam với truyền thống trọng nam khinh nữ thì người cha coi sóc lo lắng tất cả gia đình và được kính trọng.
Ngôn ngữ, trong “Monkey Bridge” đã được nhìn ngắm ở hai phía trái ngược. Một là ngăn cách trở ngại của ngôn ngữ. Và hai là, sức mạnh của ngôn ngữ. Trong lá thư bí mật mà bà Thanh gửi lại cho con, bà đã viết rằng Mai đã xấu hổ vì bà nói tiếng Anh không đúng “accent” mặc dù bà nói tiếng Việt và tiếng Pháp rất chuẩn. Và ở một phía khác, Mai đã nhìn thấy được uy lực của “tặng phẩm của ngôn ngữ”:
Ở trong thanh âm mới của tôi, thanh âm mà tôi thực sự phát ra từ cổ họng, là một uy lực kinh ngạc mới mẻ. Đối với mẹ tôi và những người láng giềng, tôi bắt đầu nắm giữ cả thế giới, một độc nhất với thế giới tiến bộ xán lạn. Giống như ông Adam, tôi đã như được Thượng Đế ban cho quyền năng chỉ danh tất cả các loài chim chóc ở trên trời và các loài thú vật trên cánh đồng. Quyền được chỉ danh, tôi nhanh chóng tìm kiếm được quyền giữ gìn ngôn ngữ và quyền thỉnh cầu thẩm quyền tiếng nói của thuần khiết không giả tạo.
Lan Cao đề cập trong tác phẩm về sự khác biệt văn hóa và hàng rào ngôn ngữ làm thành những khoảng trống trong gia đình tạo thành sự xa cách giữa cha mẹ và con cái. Mai đã nhìn ngắm người mẹ của mình như một người đã chết từ trong tâm hồn bởi vì bà không thể tự làm cho hoàn hảo và không thể tự điều chỉnh theo với xã hội bên ngoài. Vị trí giữa hai thế hệ có khoảng trống lớn như lời phê bình của David Cowart đã viết: “Mai nhìn những người định cư ở đây lớn tuổi hơn mình như những người tuổi trẻ và mẹ cô là một người hoán chuyển vai trò từ người mẹ sang người con”.
Trong “Monkey Bridge”, cũng đầy niềm hoài nhớ của những người Việt Nam lưu vong. Họ sống tập trung vào những khu vực như Little Sài Gòn và trong đời sống, trong câu chuyện họ toàn hướng về phía quê hương của họ. Sâu thẳm trong tâm hồn của họ là sự đối lập với chính quyền Cộng Sản hiện hữu trong nước. Họ mong một ngày chế độ ấy sẽ bị sụp đổ và họ sẽ hồi hương trở về sau ngày tươi đẹp ấy.
Lan Cao đã viết tác phẩm này bằng trái tim của người Việt Nam.
Cô sinh trưởng và lớn lên ở Việt Nam nhưng khi đến Hoa kỳ ở tuổi mười ba, đã nỗ lực để hội nhập vào dòng chính cả ở đời sống thưc lẫn đời sống văn chương. Khi được hỏi là thời giờ ở đâu mà làm được cả hai công việc thì cô trả lời: “Thực sự, đây là phương cách dễ dàng nhất trên thế giới. Với công việc của một người khoa bảng, tôi dành hết thời gian cho nó. Khi tôi viết văn, tôi có khuynh hướng viết vào buổi tinh sương, từ 4 giờ sáng đến 8 giờ sáng, trước khi tôi vào lớp dạy học”. Viết tiểu thuyết với Lan Cao không cần sự sửa soạn mọi thứ. Văn chương đến tự nhiên khi cô có những điều muốn ngỏ trong những thời kỳ khó khăn của cuộc sống. “Tôi bát đầu viết văn khi mẹ tôi trở bịnh nặng năm 1992... tôi cảm thấy mình là một người may mắn bởi vì tôi đã trả giá cho sự suy tưởng về những điều mà thật tình tôi thấy hiếu kỳ muốn tìm tòi để hiểu”.
Một nửa thế kỷ sau khi bắt đầu, chiến tranh Việt Nam đã được lưu dấu vết không nhòa trong tâm thức những người Hoa Kỳ. Lan Cao với một tiểu thuyết đầu tay có chất cổ điển đã được biết đến rộng rãi “bởi vì đã nối liền được hai thực thể đối nghịch nhau nhưng lại phải quan hệ với nhau là Hoa Kỳ và Việt Nam” (như nhận định của Isabel Allende). Với tác phẩm thứ hai và cũng là tiểu thuyết mới nhất, tác giả mang độc giả trở lại một cuộc chiến và làm nổi bật những dữ kiện mà lịch sử ở thế kỷ hai mươi chú tâm đến. Đời sống của một gia đình người Mỹ gốc Việt qua bao nhiêu biến chuyển đã được kể lại và mô tả một cách gián tiếp những hậu quả của chiến tranh một cách đầy nhân bản và hướng thượng.
Chân dung của người cha, một sĩ quan tư lệnh lữ đoàn nhảy dù của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã phải rời bỏ quê cha đất tổ. Người con gái tên Mai cũng chia sẻ thân phận lưu lạc với cha. Trong thời kỳ chiến tranh trong đời sống họ có những quan hệ thân tình với hai chiến binh Hoa Kỳ. Một là James một sĩ quan và một Cliff là cố vấn quân sự. Bốn chục năm sau, hai cha con Minh và Mai sinh sống ở vùng ngoại ô Virginia với thân phận của người tị nạn. Mai đã tự mình tìm kiếm ra một loạt những sự thật đau xót về những gì đã xảy ra cho gia đình cô trong những năm qua. Còn Minh thì đã phản ảnh cuộc đời lính trận của mình với đầy đủ những tính chất của tình yêu thương và trò bội phản đã nặng chĩu trong tâm kể từ khi mất nước năm 1975.
The Lotus and The Storm là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh và mô tả những vết thương gây ra từ cuộc chiến. Ở một tầm nhìn căn bản, là một cuốn biên niên sử ghi chép lại một cuộc sụp đổ của một xứ sở với những âm mưu chính trị và sự tàn phá của chém giết mà sự điều khiển và chỉ đạo chiến tranh chủ động từ nước ngoài. Nhưng ở một tầm vóc nhân bản khác, là một câu chuyện thân thương sâu sắc giữa tình yêu và niềm khát khao mong đợi, giữa dối trá và phản bội, giữa đau buồn và cuồng dại. Nhưng, ở tổng quan tất cả, là sự mất mát to lớn của cả một đất nước với dấu vết sâu xa đã hằn dấu lên cuộc sống của những đứa trẻ, trong những nhắc nhở thì thầm trải qua những không gian và thời gian hiện hữu trong đời.
Tiểu thuyết này kể lại chuyện của một gia đình đã sống trong những quan hệ không thể tách rời với nỗi bi thảm khi thành phố Sài Gòn thất thủ. Một người là chiến binh lừng lẫy hào quang nay yếu đuối tàn tạ trong căn nhà của mình ở ngoại ô Virginia của thủ đô Washington DC với đứa con gái tên Mai đã lớn lên từ một phố nhỏ ở Chợ Lớn thuộc thành phố Sài Gòn.
Tác phẩm mở đầu từ năm 1963 từ một khu vực buôn bán tấp nập ở vùng Chợ Lớn. Việt Nam đang ở trong một thời điểm lịch sử xoay chuyển. Dưới sự chăm sóc tận tình của người vú trung thành người Trung Hoa, cô bé Mai sống yên ổn và ngây thơ với tuổi trẻ trong trắng không bị ảnh hưởng từ những yếu tố của thế giới bên ngoài. Cô có những cảm nghiệm hiện thực từ cuộc sống với chị em trong gia đình, với những người thân yêu và những bạn hữu trung thực. Rụt rè nhút nhát và ngại ngùng trước sự phiêu lưu, Mai đã tự mình tạo ra sự hiếu kỳ từ những gợi ý và thúc đẩy của người thân thuộc lớn tuổi hơn. Chị cô và cô tò mò suy nghĩ về thế giới bí ẩn và tìm kiếm những cấm điều mông lung của những ngã đường quanh co của những con phố Trung Hoa lân cận. Các cô cũng kết thân với người lính Hoa Kỳ cùng ưa thích và say mê điệu nhạc “rock and roll” quyến rũ. Có những buổi tối đặc biệt, bà mẹ cô đọc chuyện Ả Rập Ngàn Lẻ Một Đêm hoặc những truyện khác để đọc sách cho trẻ thơ trước khi vào giấc ngủ. Đôi khi, người cậu em của mẹ cô, là một Việt Cộng, đến thăm và gia đình lại phải tranh luận tuy rất nhân bản nhưng quyết liệt về chủ trương bài ngoại của Việt Cộng, đặc biệt là chống Mỹ và chống lại những người Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Bất kể cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt và sự phân cách trong gia tộc, mọi người vẫn sống bình thường cho đến lúc những sự kiện nổ bùng và làm tan nát cả gia đình và đất nước.
Câu chuyện của cha cô bé Mai, một chiến binh của QLVNCH, bắt đầu từ năm 2006 khi nước Mỹ đang ở trong sự mạo hiểm của một cuộc chinh chiến lâu dài khác. Từ giường ngủ, ông hồi tưởng lại những trận đánh mà ông tham dự ở Sài Gòn, Cambodia, Huế, như đã bật TV để xem những cảnh tượng chiến tranh ở Baghdad và Basra. Nỗi đau xưa cũ trở lại. Và ông như bị trôi đi trong ký ức đột nhiên nhớ lại về một thời gian đã qua với niềm thương nhớ người vợ yêu dấu và với một đất nước quốc gia của mình. Ngày lại ngày ông lần theo mối chỉ của cuộc đời ông theo những khoảng thời gian từ cuộc binh biến thảm sát hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm năm 1963, rồi những sự kiện xảy ra ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964 để dẫn đến cuộc tham dự chính thức vào cuộc chiến đổ quân Mỹ vào Việt Nam vào năm 1965. Rồi biến cố tết Mậu Thân năm 1968, rồi hòa ước Paris năm 1973 đến biến động bi thảm của chế độ chính phủ Miền Nam sụp đổ năm 1975. Chưa hết, những hậu quả sau cuộc chiến với sự chiến thắng của Cộng Sản đã tạo thành làn sóng người vượt biển thử thách với nguy hiểm thoát ra nước ngoài tiếp theo sau cuộc rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Mỗi sự kiện được ngắt quãng bằng những mất mát cá nhân không thể đền bù được. Những điều ấy là câu chuyện của mất mát ngây thơ, của sự thất hứa tồi tệ, của những bất ngờ xoay đổi giữa tình yêu và cuộc chiến.
Ký ức của người cha kể luôn cả những ngày hiện tại ở Virginia rồi trở lại quãng thời gian của ông ở Việt Nam. Mai, mà cuộc đời bắt đầu từ thập niên 1960 ở Việt Nam, đi tới khoảng thời gian mà cô sống tại Hoa Kỳ sau khi Miền Nam đã bị Cộng Sản Bắc Việt xâm chiếm. Cả hai người, cha và con cùng sống những ngày hiện tại của năm 2006 tại Virginia và vùng phụ cận Little Sài Gòn. Tại nơi đây cả hai cha con tiếp tục hàng ngày chiến đấu với nỗi đau thương cũ và cố gắng bắt đầu cuộc sống mới trong im lặng và chịu đựng. Cả hai ngậm ngùi với sự tan vỡ bằng hai phương cách khác nhau. Một người không thể quay trở lại quá khứ nhưng ở cuối cuộc đời bằng cách nào đó tìm kiếm được sự tha thứ - tự mình làm tốt cho mình như cho những người khác. Một người khác cố gắng đến những mảnh vụn quá khứ để chạy thẳng tới phía trước với một nửa cuộc đời dường như phản ảnh giấc mơ Hoa Kỳ. Trong kết luận The Lotus and The Storm là câu chuyện của những người đã tái xây dựng lại cuộc đời của họ trong hậu quả của chiến tranh và sự phản bội thất hứa. Bất kể nỗi đau và sự mất mát, họ tìm trong nội tâm sức mạnh chất chứa những sinh lực để tha thứ, yêu thương và sống thực.
The Lotus and The Storm có ý thức tiến về tương lai phía trước với bố cục tràn đầy những hành động nhưng cũng chan chứa những phản ảnh để thế nào mỗi một người có thể tìm được một con đường đi tới vượt qua những bất ưng của đời sống. Đó là kiếm tìm một tổ ấm của mái nhà yên bình.
Bài phỏng vấn của Eric Nguyễn với tác giả Lan Cao đã cho độc giả nhiều chi tiết lý thú, cũng như những cảm nhận độc đáo từ thân phận của người tị nạn. Thí dụ như câu hỏi:
“Cô đã được huấn luyện để thành luật sư. Và là giáo sư giảng dạy tại Dale E. Fowler School tại Chapman University. Cô luôn luôn muốn làm người viết văn không? Hay chỉ đam mê công việc cầm bút sau này?” Và câu trả lời:
Tôi thích đọc sách từ thuở còn là một cô bé nhỏ xíu. Ở Việt Nam, tôi đã bị lôi cuốn vào truyện Ả Rập Ngàn Lẻ Một Đêm và những bộ truyện kiếm hiệp của nhà văn kim Dung như Anh Hùng Xạ Điêu, Cô Gái Đồ Long, Thần Điêu Đại Hiệp. Tất cả với bố cục và tình tiết hấp dẫn đã làm tôi thích thú với những nhận xét thí dụ như trong truyện Ngàn Lẻ Một Đêm nhờ năng lực lôi cuốn người nghe mà có thể cứu sống được sinh mạng của người kể chuyện. Tôi cũng đã giới thiệu những tiểu thuyết Anh ngữ trong chương trình dạy những lớp AP English của tôi. Tôi yêu thích James Joyce với A Portrait of the Artist as a Young Man, bởi vì tác phẩm này đã làm tôi khám phá được tiến trình của đời người với một truyền thống văn hóa không cưỡng chế lại nội dung cuốn sách. Như thế tôi yêu thích viết văn từ tôi yêu thích đọc sách.
Ở đại học, tôi chọn học những lớp mà sinh viên được khuyến khích đi sâu vào nội dung, để tự mình khám phá ra được những ẩn tàng của thế giới bên trong cùng một lúc với sự quan sát bức tranh phác họa chiều rộng bên ngoài của chính trị, kinh tế, lịch sử, xã hội. Giáo sư khuyến khích chúng tôi viết nhật ký hàng ngày và viết để ghi chép lại những tác dụng hỗ tương giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài. Bà giới thiệu với chúng tôi tác phẩm The Bluest Eye của Toni Morrison. Tôi yêu quí sách vở. Chúng tôi cũng đọc Jung và thơ của Adrienne Rich để đào xới trên những hoang tàn đổ nát cũng y hệt như lao vào thế giới của bóng tối chập chùng những điều chưa hiểu để làm nổi bật lên một nhân dáng nhiều sáng tạo và hiểu biết. Viết đối với tôi là bắt đầu học hỏi cách sống và cách yêu thương trong hình bóng chính mình. Sự bất toàn ở đây có thể nhìn thấy và viết về điều ấy. Viết là phong thái tự nhiên là một phần của bản ngã chính tôi và thật là cần thiết cho đời sống.
Tôi cũng yêu viết sách về luật và tôi thích gộp chung cách viết tiểu thuyết vào trong những công trình giáo dục khoa bảng khi dạy học và cầm bút. Khi tôi làm việc về luật ở NYC sau khi tốt nghiệp tiến sĩ luật, vấn đề Việt Nam và kinh tế chỉ huy được chuyển đổi thành kinh tế thị trường đã làm tôi quan tâm. Sự kiện ấy xảy ra sau khi Liên Bang Nga Xô Viết tan rã và Bức Tường Bá Linh bị sụp đổ. Tôi nhìn thấy hiệu quả của luật pháp trong công việc tái tạo nền móng xã hội, biểu dương tự do cá nhân và khuyến khích phát triển kinh tế và chính trị trên căn bản hòa hợp quốc tế và giao dịch. Đó là chủ tâm khảo cứu về lợi ích trong đời sống giáo dục khoa bảng chính thức của tôi.
Trả lời câu hỏi khác của Eric Nguyễn: “Viết tiểu thuyết và viết sách luật, theo tôi thì ít nhất cũng là hai công việc khác nhau, đặc biệt là lãnh vực và mục đích của kinh tế và phát triển chính trị. Còn trong lãnh vực sáng tác, nhiều đề tài đã qua đi trong đầu. Cô đã là một luật sư giống như là một người viết văn như thế nào? Khi là luật sư và với kiến thức khoa bảng đã dạy cô điều gì khi viết văn?” Câu trả lời của Lan Cao:
Vâng, đó là hai lãnh vực khác nhau. Viết sách về luật, viết những nhận định duyệt xét trong sách giáo khoa, rất khác biệt với viết tiểu thuyết sáng tác. Viết về luật, phần đông là nghiên cứu, thật nhiều nghiên cứu để tìm kiếm và rồi chuyển đổi những điều ấy thành những bài luận thuyết. Mà nghiên cứu là ở từ những điều ở ngoại tại như sách vở, những đề mục, những cuộc phỏng vấn. Và tiến trình nghiên cứu thì chồng chất những dữ kiện phải lựa chọn để xác định được những mảnh nhỏ của dữ kiện dư thừa vượt quá giới hạn của chân lý. Với cách viết tiểu thuyết, tôi khởi đi từ hình bóng nội tại của chính mình và những mảnh vụn của chính tôi rồi tôi nói với phong cách hiếm họa liên quan tới nghiên cứu. Tôi không thường xuyên viết về Việt Nam, tuy nhiên có khi trong lúc thay đổi đề mục tôi không thấy cách viết của mình dính dáng nhiều đến sự tìm tòi khảo cứu (bởi vì tôi đã làm công việc khảo cứu khi viết sách luật). Với tiểu thuyết tôi đã dàn dựng bố cục đi xa ngoài nguồn gốc của trải nghiệm và quan sát của tôi.
Dĩ nhiên, khi dạy học tôi áp dụng lối viết rất khác biệt với phương cách viết tiểu thuyết. Quan hệ giữa thầy giáo / học trò đều ở trong tiến trình ảnh hưởng lẫn nhau trong khi cầm bút viết văn trên căn bản là cách thế cô đơn, Rồi tôi thích thay đổi những đòi hỏi nhiều ảnh hưởng với nhau và nhiều dữ kiện ngoại tại bên ngoài. Kết quả tức thì, bạn dạy học trong lóp, bạn truyền đạt nội dung tư tưởng, bạn đẩy học trò đặt câu hỏi về những giả thuyết, bạn ca tụng sự phê bình lý luận. Và khi rời khỏi lớp học về nhà, bạn cảm thấy hài lòng với những điều đã áp dụng. Còn viết để sáng tác, thì cô đơn và nhiều mơ hồ trong chủ đích. Có khi, viết mà chẳng biết mình sẽ đi về đâu, cho hôm nay hay ngày mai…
Eric hỏi: “Cô nói cầm bút viết là hòa hợp giữa những điều tự hiểu biết và cái bóng của chính mình. Trong The Monkey Bridge tính chất ấy được sử dụng rất nhiều. Thực vậy từ tính chất của bà mẹ tên Thanh đã dùng văn chương để ghi lại từng thời kỳ theo lối biên niên của cá nhân bà để nói với cô con gái về sự thật trong lịch sử đời riêng. Cô có nghĩ rằng viết và kể lại chuyện đời là rất quan trọng đối với những sắc dân thiểu số như người tị nạn Mỹ gốc Việt? Nơi chốn nào cô nghĩ việc cầm bút thích hợp để tạo thành sự đồng nhất của cộng đồng?” Lan Cao trả lời:
Tôi nghĩ viết và kể lại những câu chuyện rất quan trọng cho tất cả những ai cần thiết tới (thí dụ như một người suy nghĩ về Thoreau với Walden hay May Sarton với Journal of a Solitude). Người viết có thể viết với chính hành trình của họ. Nhưng tôi nghĩ viết và kể chuyện quan trọng với người di dân ở những cách thế khác biệt nhau (mặc dù tất nhiên người cầm bút viết cho họ và cho những hành trình của họ). Với người di dân, viết có thể với mục đích để xây dựng một cộng đồng và sáng tạo ra một dàn hợp xướng với những âm vọng quan yếu để cộng đồng này hiểu biết cộng đồng khác và cho thế giới bên ngoài hiểu được họ chân thực. Với bề ngoài là hình thức của một nhà văn di dân, tôi viết với tâm cảm của một người đã trải nghiệm qua những biến cố của cuộc sống mặc dù tôi nghĩ một phần tôi tin tưởng rằng tất cả những người cầm bút viết về cuộc hành trình của người di dân với sự trân trọng cách riêng.
Với nhà văn Mỹ gốc Việt ở một thế hệ lớn lên ở xứ sở này, Việt Nam và cuộc chiến tranh đã liên tục là một phần tử của đời sống chúng tôi. Đó là đất nước (earth and water) và không thể tránh khỏi được phạm trù ấy. Và khi có một người nhìn thấy Việt Nam và cuộc chiến tranh được đề cập đến trong phương cách loại trừ ra khỏi chính cá nhân chúng tôi và những trải nghiệm của chúng tôi. Thì việc cầm bút đã ở trong nhiều kích thước khác nhau. Đó là cách viết của nội tâm và cách viết của ngoại tại. Hay là cách viết cho mình và cách viết cho người khác. Đó là cả hai viết và chuyển dịch. Khi mà yếu tố viết cho người khác quá nhiều thì sự cân bằng sẽ không còn và công việc ấy không còn tác dụng. Như thế, cần phải cân bằng trong khi viết.
Tất cả những câu chuyện (cũng như lịch sử) đều phải có tiêu điểm để nhìn ngắm và quan sát. Người viết văn Mỹ gốc Việt cũng ở trong trường hợp ấy…