~ NGUYỄN MẠNH TRINH ~
Ngày Lễ Từ Phụ là một ngày lễ của nhân loại. Ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng 6 đã trở thành ngày lễ chính thức để vinh danh người cha của 55 quốc gia trên thế giới không kể đến các quốc gia chọn thời điểm khác nhưng cũng cùng mục đích là vinh danh tình cha con. Ðối với người Việt Nam, câu ca dao hầu như mọi người đã thuộc nằm lòng. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nhân dịp ngày từ phụ, chúng tôi xin viết về đề tài thiêng liêng này để phác họa lại một vài chân dung người cha trong văn chương. Ðể từ đó, qua những cảnh đời và kiếp người, thấy được bất cứ trường hợp nào, tình thương cha con cũng có vị trí trường cửu của nó.
Ngày Lễ Từ Phụ là một ngày lễ của nhân loại. Ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng 6 đã trở thành ngày lễ chính thức để vinh danh người cha của 55 quốc gia trên thế giới không kể đến các quốc gia chọn thời điểm khác nhưng cũng cùng mục đích là vinh danh tình cha con. Ðối với người Việt Nam, câu ca dao hầu như mọi người đã thuộc nằm lòng. Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Nhân dịp ngày từ phụ, chúng tôi xin viết về đề tài thiêng liêng này để phác họa lại một vài chân dung người cha trong văn chương. Ðể từ đó, qua những cảnh đời và kiếp người, thấy được bất cứ trường hợp nào, tình thương cha con cũng có vị trí trường cửu của nó.
Ngày Father’s Day là ngày lễ chính thức của quốc gia Hoa Kỳ.
Trong lịch sử, dự luật để chính thức hóa ngày Lễ Từ Phụ đã được nhiều lần biểu quyết tại Quốc Hội. Dự thảo luật đầu tiên vào năm 1913, rồi sau đó Tổng Thống Woodrow Wilson vào năm 1916 cũng tại cuộc phát biểu tại Spokane đề nghị một ngày lễ chính thức nhưng sau đó Quốc Hội không đồng thuận vì sợ ngày lễ này bị thương mại hóa. Năm 1924, Tổng Thống Calvin Coolidge cũng có ý định đó nhưng Quốc Hội cũng không thông qua. Ðến năm 1966, thì Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức vinh danh người cha và đề nghị chọn ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng 6 làm ngày lễ chính thức. Mãi đến năm 1972 , Tổng Thống Richard Nixon mới chính thức ký dự thảo luật chọn ngày nói trên thành ngaỳ lễ quốc gia của Hoa Kỳ.
Có người hỏi, ở văn chương Việt Nam, anh thấy có tác giả nào viết về người cha mà anh đọc thấy thích thú và chia sẻ nhất? Câu trả lời là theo ý riêng tôi, khi tôi đọc Võ Hồng, viết về người bác mà ông coi như cha trong “Người Về Ðầu Non” cũng như khi tôi biết đời sống của ông trong cảnh gà trống nuôi con, tôi thật nhiều thương cảm. Một đời sống qua đi, của Việt Nam với những tình cảnh sinh hoạt của nông thôn và đô thị miền Nam từ năm 1930 đến sau này, đã in đậm dấu ấn trong văn chương. Và ở đó, con người còn ảnh hưởng đời sống cũ xưa đến những người sống trong thời đại ảnh hưởng của chiến tranh khốc liệt được phác họa lại, sâu sắc hiền hòa nhưng không kém phần nặng mang thời đại tính. Ở một khía cạnh nào đó, Võ Hồng đã viết như sống lại cuộc đời mình.
Nhà văn Võ Hồng sống trong cảnh gà trống nuôi con chắc phải chật vật trong cuộc sống. Ông là một nhà giáo và đời sống cũng khá thanh bạch. Vợ ông mất sớm và ông đã nuôi ba người con nên người. Ông đã viết một bài thơ để nói về tình cảnh của mình. Bài thơ Sau Ba Mươi Năm.
nhờ đất cho món ăn
nhờ nước đưa thức uống
hô hấp nhờ khí trời
mà cây đầy sức sống
cũng vậy ba đứa con
truyền cho cha sinh lực
lao khổ đầu sớm hôm
cô đơn dù nhức buốt
nhưng nhìn con lớn khôn
cha quên mọi cơ cực
đứa út vừa lên ba
biết mẹ qua tấm ảnh
miệng chỉ quen gọi cha
khi đói và khi lạnh
chị lớn chín tuổi tròn
đóng vai người mẹ nhỏ
vội vã học điều khôn
cửa nhà tập coi ngó
thằng giữa khi vào lớp
tên mình tưởng tên ai
thầy hỏi không biết đáp
nghe chim hơn nghe bài
nay các con nên người
mỗi đứa đi một ngả
mình cha căn nhà xưa
trông vừa quen vừa lạ
không còn ngày gian khổ
chỉ dư ngày tiêu điều
vắng con như cây cỏ
héo úa giữa quạnh hiu
tuổi già ngồi gẫm lại
quý nhất của đời mình
là ba đứa con dại
cha nuôi đến trưởng thành.
Tình cảnh của nhà văn Võ Hồng bây giờ thì cô đơn trong tuổi già. Có lúc ông sống tại thị xã Nha trang và chắc là thanh bạch nghèo nàn như phóng viên Cao Chư mô tả trong bài viết đăng trên Kiến Thức Ngày Nay số tháng 6 năm 1994:
… Lần theo địa chỉ tôi tìm đến Hồng Bàng một đường phố vắng vẻ của Nha Trang. Bước vào căn phòng ông ở tôi ngẩn người vì trước mắt tôi không phải là một người năm sáu mươi như tôi tưởng khi nhìn trong bức ảnh, mà là một ông lão! Ðúng, một ông lão trán hói cao quá đỉnh đầu, má hóp, người cao gầy. Trong bộ đồ pijama và vắt ngang vai chiếc áo khoác màu hoa đào đã phai, mắt đeo kính trông ông như một đạo sĩ phương Ðông thuở nào. Võ Hồng đang ngồi trên chiếc võng dừa cột vắt qua căn phòng nhỏ, một tay cầm tờ báo, tay kia đang nâng một chiếc ang-gô. Có lẽ ông đang ăn sáng. Thấy khách lạ ông có vẻ hơi lúng túng vì trong phòng ngoài mấy thứ đồ đạc , sách vở chẳng có bàn ghế gì cả. Tôi trấn an ông rồi ngồi xuống sàn gạch. Tôi tự giới thiệu tên mình…
Ðoạn văn ấy nghe như có một chút gì vương vướng. Của một người cầm bút sống trong một hoàn cảnh nghèo khổ mà lại bất an. Những đứa con của ông hình như bây giờ đều sống ở hải ngoại để lại một ông già cô đơn sống cảnh xế bóng buồn phiền. Một hình ảnh người cha Việt Nam suốt đời hy sinh cho con bây giờ sống thật tội nghiệp…
Trong văn chương chắc nhà văn Võ Hồng có viết nhiều về đề tài người cha. Ông đã viết tùy bút “Một Bông Hồng Cho Cha” với cả tấm lòng.
Ngày Vu Lan nhiều chùa tổ chức lễ hội bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Ðể tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho Cha. Cha còn sống: nơ xanh. Cha đã mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn cha mất: hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất cha còn: hoa trắng nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh tủi thân khóc òa và cả lễ đường cũng khóc òa theo. Cha cũng như mẹ, rồi sẽ một ngày
Ðỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc
Nên mỗi người con đều phải vội vàng.
Trả hiếu không bao giờ đủ không được coi là dư bởi tình cha thương con là cho chứ không phải cho vay để có thể gọi là trả đủ.
Những tùy bút như Một Bông Hồng Cho Cha, Nghĩ Về Mẹ, Nửa Chữ Cũng Thầy, Lời Sám Hối Của Cha,… thấm đẹp nét đẹp của nền văn hóa Ðông phương. Có người hỏi với tình trạng đất nước lúc đó, ảnh hưởng của văn chương Võ Hồng có tác dụng nào trong đời sống xã hội Việt Nam?
Chính nhà văn Võ Hồng trả lời câu hỏi ấy khi có một ký giả hỏi một câu cũng tương tự như vậy:
Những tùy bút của tôi không nhằm tạo ra được sức bật mà chỉ khiêm tốn góp phần đắp giữ nền móng đạo đức trong xã hội. Ngạc nhiên và cảm động biết bao khi rất nhiều bạn đọc thuộc mọi lứa tuổi viết thư cho tôi tỏ ý tán thưởng. Có người mượn tạm tấm ảnh của mẹ bạn mình, đem lắp vào chỗ họa sĩ minh họa nơi bài báo “Nghĩ Về Mẹ” đem photocopy. Rồi gửi tặng bạn nhân sinh nhật của mẹ bạn. Giá rẻ chỉ có vài trăm. Rẻ hơn đóa hoa hồng mau tàn. Nhiều người đã khóc khi đọc bài “Lời Sám Hối Của Cha”…
Truyện dài “Người Về Ðầu Non”, nhân vật người bác ấy là anh ruột của người cha không có con nên nhận tác giả làm con nuôi. Và trong suốt cuộc đời của ông đã là bóng mát để che chở cho con cháu. Ðọc Người Về Ðầu Non, tôi như thấy hiển hiện trước mắt người bác già quê mùa đã đi theo tác giả suốt một hành trình dài, một mẫu nhân vật đặc thù người miền Nam Trung Bộ, sống và thở quặn đau theo từng biến cố của đất nước. Một điều rõ nét, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn là thái độ hy sinh quên mình và tình thương là cái mộc che chắn tất cả những bất tường không may cho những người mà ông thân yêu. Nhân vật ấy vui cái vui của con cái, hãnh diện vì thành công cũng như buồn vì nỗi thăng trầm của chúng.
Lại có người nhận xét rằng trong Người Về Ðầu Non hình ảnh nông thôn miền Nam Trung Bộ làm người đọc thích thú và là một nét riêng biệt đối chiếu với các tác giả miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc… Ðó là phản ảnh từ lòng yêu thương quê hương qua người qua cảnh. Tả cảnh, tác giả đã mang vào trong đó hồn người. Cảnh, tuy có lúc chỉ là những phác họa thoáng qua nhưng mang lại những cảm giác hồn hậu của quê hương. Và người, qua hình ảnh của sông của núi cũng tượng trưng cho một đời sống phong tục cũ xưa nhưng lại gợi nhiều hoài cảm.
Ngôn ngữ mà các nhân vật trong “Người Về Ðầu Non” có phong vị của địa phương quê mùa có phải là một đặc tính của truyện dài này. Có người cho là thô thiển nhiều địa phương tính. Nhưng cái ngôn ngữ bình dân ấy lại gợi lại những mảnh đời sống thực và làm sinh động hơn. Chính trong một cuộc phỏng vấn của nguyệt san Văn (số 209 ngày 1/9/1972), tác giả Võ Hồng đã nói:
Ước vọng của tôi là tìm gặp những ông nông dân già, ông chài cá lưới tôm, ông thợ rừng... nghe họ kể chuyện làm ăn âu lo hy vọng. Khi được in một loạt những cuốn sách như Hồi Ký Của Một Ngư Phủ Ở Tiên Châu, Phút Nói Thật Của Một Nông Dân Miền Hóc Lá,... thì ông tưởng tượng xem độc giả các thế hệ sau sẽ yêu quê hương tha thiết đến bực nào. Quê hương được nuôi dưỡng được bồi đắp được bảo vệ bằng sức cần lao âm thầm của đại đa số những người sống đạm bạc nghèo nàn nơi thôn quê chớ đâu phải nhờ lớp thị dân sung sướng ở thành phố?
Thi sĩ Phạm Công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn “Hoa Khế Lưng Đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.
Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:
Anh V.H. ạ , anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.
Và một triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.
Anh có nghe tim con người đập trong những trang “Xuất Hành Năm Mới”, trong “Trận Đòn Hòa Giải”? “Xuất Hành Năm Mới” còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong “Xuất Hành Năm Mới” và “Trận Đòn Hòa Giải” là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này…
Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.
Còn với tôi, Võ Hồng đã có một góc kỷ niệm riêng mình từ lúc còn bắt đầu vào ngôi trường trung học. Lúc ấy , hình như năm 1960, buổi sáng trước cổng trường có mấy người bán sách dạo trải tấm bạt bầy hàng bán. Trong đó có cuốn Hoài Cố Nhân, tác phẩm mà sau này chính tác giả nhìn lại: “Hoài Cố Nhân, nhìn lại mà thương, nghèo nàn, in sai nhiều và chắc chắn có bao nhiêu non nớt”, bìa mầu xanh lam có bức tranh người con gái mặc áo dài cổ thật cao. Tự nhiên tôi thấy thích quyển sách ấy, giở từng trang sách đọc “cọp” nhiều lần và tôi học được câu chữ Hán “tam nhân nhật, hoài cố nhân” và biết thêm ba chữ tam, nhân, nhật ghép lại thành chữ xuân. Ông thầy dạy Việt văn đã tròn mắt ngạc nhiên khi tôi phát biểu về điều mình học lóm trong lớp bởi một đứa học trò đệ thất khờ khạo mà “thông thái” đến như vậy. Ðâu biết rằng tôi đã nhịn đói cả một tuần quà sáng để có được cuốn sách này. Và, từ đó về sau, mỗi khi vẽ hình khuôn mặt phụ nữ tôi lại nhớ đến hình bìa sách Hoài Cố Nhân và tự nhiên vẽ cái cổ thật cao bắt chước như họa sĩ nào đã trình bày...
Kỷ niệm ấy vụn vặt nhưng điều mà tôi thích từ Võ Hồng là những truyện mà ông mô tả về cảnh về người của một đất nước và một thời kỳ khá lạ lùng với tôi. Tuy Hòa, một nơi chốn mà tôi chỉ ghé qua có vài lần trong thời kỳ ở lính ở Pleiku, nơi có hai phi trường Tuy Hòa North, Tuy Hòa South khá lớn và tôi nghĩ là nơi có giá sinh hoạt thấp nhất vùng 2. Ðồ ăn thức uống ở đây rẻ và ngon, mỗi lần có người bạn nào từ Tuy Hòa biệt phái về là có thịt ngon, có cua cá tươi mà giá thì khá rẻ. Ấn tượng về nơi ấy chỉ dung dị như thế.
Nhưng, đọc những trang sách của Võ Hồng, tôi lại thấy một đời sống của một thời đã qua, hiển hiện. Tôi chỉ là một người đọc sách và viết những cảm nghĩ của mình trong tư cách một độc giả. Tôi soi tìm trong trang sách những gửi gấm mà tác giả muốn tỏ bầy bằng chữ nghĩa của mình. Với chủ quan như vậy, tôi vẫn nghĩ Võ Hồng là một người yêu quê hương rất mực. Ông yêu Tuy Hòa, ông thương Phú Yên như một câu nói với nhà văn trẻ đã tử trận tại đồn Nora ở Phan Thiết, Y Uyên, người được dựng tượng tại thành phố Tuy Hòa vì những truyện ngắn viết về nơi chốn này: “Một nhà văn chân chính bao giờ cũng nặng tình với mảnh đất nơi nó cư ngụ”. Cả hai nhà văn, Võ Hồng và Y Uyên, cùng nặng tình với Tuy Hòa, với Phú Yên, và cùng chia vui sẻ buồn với đất và người, cũng như tìm được nét văn chương trong đời sống ấy trong một thời đại chiến tranh đầy giông tố.
Ðọc “Người Về Ðầu Non”, đọc “Hoa Bươm Bướm”, đọc “Con Suối Mùa Xuân”,… để thấy lại một thời đã qua, sinh động và mới lạ trong văn chương vì ít người viết nhắc tới.
Trả lời câu hỏi phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, nhà văn Võ Hồng tâm sự:
… Ðời sống nông thôn Việt Nam được ghi lại trong văn chương, bắt đầu từ thời Tự Lực Văn Đoàn nhưng mới chỉ là nông thôn miền Bắc quanh quẩn ở miền châu thổ sông Hồng Hà. Ông Lan Khai, ông Thế Lữ giới thiệu thêm miền Trung Du, miền Thượng Du Bắc Việt. Trong thời cực thịnh đó của Tự Lực Văn Đoàn thì nông thôn miền Trung Việt gần như không được nói tới. Cho mãi đến Ðệ Nhị Thế Chiến, nếp sống dân gian ở miền Trung cũng chỉ được mô tả ít ỏi qua vài sáng tác của Nguyễn Tuân (miền Thanh Hóa) Bùi Hiển (miền Nghệ Tĩnh), Phan Du, Nguyễn Văn Xuân (miền Thuận Quảng). Khi đất nước bị qua phân, miền Bình Ðịnh có thêm ông Võ Phiến, đất Quảng có thêm ông Vũ Hạnh. Ðây tôi chỉ nói đến những người viết văn xuôi viết truyện ngắn truyện dài trong đó phần mô tả con người và môi trường sinh hoạt được coi là trọng tâm. Tôi chưa đề cập đến những thi sĩ. Ðến bây giờ (cuộc phỏng vấn thực hiện năm 1972) thì không khí sáng tác có phần nhộn nhịp hơn mỗi địa phương đều sản xuất ra nhiều cây bút trẻ sống gắn chặt với quê hương mình và nói lên cái khổ của đồng bào mình…
Võ Hồng đã mô tả quê hương mình bằng cái tâm của một người sống và chết cùng với mồ mả cha ông. Từ phong tục đến cách sinh hoạt thường ngày, từ ngôn ngữ quê kiểng đến suy tư dân giã, những mẫu chân dung ấy linh động trong một ký ức đầy ắp những xúc cảm. Tôi nhớ, trong những số báo xuân của những tạp chí văn học sáng danh thời đó như Văn, Bách Khoa,..., truyện ngắn Võ Hồng đã đem lại nhiều phong vị Tết. Ðọc thử một truyện như “Ngày Xuân Êm Đềm” tự nhiên tôi như lây cái cảm giác nôn nao ngày nào khi mùa xuân Tết thấp thoáng trong những luống cải, tần ô, xà lách ở ven những sân nhà, trong những bụi vạn thọ đi xin từ chùa Châu Lâm về trồng. Xuân cũng mơ hồ trong không khí của những chuyến đò dọc xuôi ngược chợ Ðồng Dài, chợ gò Chai, chợ Gành, chợ Thứ, từ tiếng ốc tù và rền rĩ trong đêm đến ánh đèn chai giăng giăng sáng rực bờ sông của những phiên chợ Tết. Tháng Chạp với những buổi chợ khuya có tiếng pháo tre nổ đì đùng trong nỗi náo nức của bọn trẻ con vui sướng với những món đồ chơi đặc thù ngày Tết như con gà nắn bằng đất tô phẩm xanh đỏ. Cảnh rộn rịp sửa soạn nhà cửa, giã lá me chua ngâm nước để chùi lư đèn đỉnh thờ bằng đồng, nấu những món ăn đặc tết, bánh chưng bánh tét, làm rim mứt,… Ngày mồng một, cả làng ròn rã đầy những tiếng guốc. Những bàn chân trần quen đất đá nay e dè trên đôi guốc mộc là một hình ảnh Tết nhiều ấn tượng nhất ở thôn quê. Ðọc lại trang từnng trang, vẫn thấy khoái và như sống lại một thời, khi tuổi đời đã lớn như bây giờ…
Võ Hồng mang quê hương của mình vào trong tác phẩm, ông viết không phải chỉ như một địa dư chí ghi chép lại những dữ kiện mà còn mang cả cái tâm của mình vào trong từng câu văn, từng dòng chữ. Cái đẹp của chữ nghĩa Võ Hồng là nơi tính đôn hậu, là sự hướng thượng luôn nhìn về cái thiện cái tốt lành. Truyện của ông, kể về đời thường, với những chi tiết quá gần gũi đến nỗi không thể nhận ra, đã có sức sống của sự chân thành, của những quặng nguyên chất đời sống ngồn ngộn sinh lực. Ông đã viết:
Thế hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn đã chết, những nếp sống cũ lần lượt bị xóa đi, thay thế bằng nếp sống mới. Tôi nghĩ rằng nếu tôi dâng trọn cả cuộc đời của tôi để dựng lại cái dĩ vãng đó cũng vẫn còn chưa đủ… vậy tôi viết về những kỷ niệm dĩ vãng, tôi nhằm vào việc lấp một cái hố trống. Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp thiết tha gắn bó với quê hương…
Viết về quê hương xa cách, dường như không có ai nhiều thiết trao gửi hơn Vũ Bằng với “Thương Nhớ Mười Hai”, với “Miếng Ngon Hà Nội”. Cũng như, viết về Tuy Hòa, về Phú Yên không ai thuần phác tâm cảm hơn Võ Hồng. Ở ông Vũ, miền Bắc quá xa vời chỉ còn trong hồi ức trong tâm tưởng. Với ông Võ, quê hương vẫn còn đây những cảnh vật nhưng người thì đã xa và đời sống đã khuất nẻo vào không gian thời gian nào, có xa vời nhưng lại gần gũi. Tuệ Sĩ đã nhận xét khá xác đáng toàn bộ tác phẩm của Võ Hồng:
Ðó là một thứ tình yêu chỉ có trong thế giới của hoài niệm. Nó có thể chọn một hình thức thích hợp để xuất hiện trong văn chương. Tôi muốn nói các truyện ngắn của Võ Hồng. Nơi ông, có lẽ có một tình yêu đã trở thành vĩnh cửu, đã muôn đời câm lặng được chôn kín dưới lòng đất. Nó thấm vào các truyện ngắn của ông, làm chất liệu hoặc khi ngấm ngầm hoặc khi lộ liễu dưới dáng dấp mệt mỏi nhiều tư lự nhiều phán xét.
Truyện dài của ông phần lớn cũng chỉ là những truyện ngắn được ráp lại. Có thể đây chỉ là cái nhìn phiến diện. Nhưng tôi tưởng tượng rằng, nếu cắt riêng từng đoạn trong truyện dài của ông, để chúng thành những đoạn biệt lập, chúng ta dễ bắt gặp nhiều cái nhìn của một người từng trải khôn ngoan trong đời sống và khôn ngoan cả trong tình yêu. Do đó tác phẩm của ông mang nhiều chứng tích xã hội và thời đại. Nhưng nếu nhà văn chỉ ngồi kể lể những chuyện đời đi qua trước mắt dù bằng một giọng điệu trung thực đến mấy vẫn không tránh khỏi tự gán cho mình vai trò trạng sư của một thời đại. Ngôn ngữ của loài người không thể chỉ là phương tiện cho những tranh chấp và hòa giải. Mỗi người đều phải sống bằng cái nhìn phê phán, và đau khổ vì phê phán - phê phán và bị phê phán. Ngôn ngữ không thể chỉ là phương tiện cho sự phê phán…
Trước năm 1975 , ông viết rất mạnh và nhiều. Sau 1975, ông uể oải.Tại sao lại như thế? Chúng ta hãy nghe ông tâm sự:
Nhắc lại chuyện cũ. Năm 1985, tạp chí Văn Nghệ Phú Khánh đặt câu hỏi “Xin cho những nhận xét về tình hình văn nghệ ở địa phương ta sau mười năm”. Tôi ghi những suy nghĩ rồi trao cho anh tổng biên tập, vừa nói: “Tôi có thể viện cớ là bệnh, là bận để khỏi trả lời. Nhưng lòng tự trọng không cho phép tôi nói dối. Nhưng đưa anh đọc rồi xin anh cho lại. Ðừng đăng. Bởi nếu đăng thì tôi bị khó khăn”. Sau đây là tờ giấy tôi trả lời:
“Có một nhược điểm thường gặp nơi văn chương địa phương cấp nhỏ cấp thấp. Ðó là đọc xong thấy tất cả đều tốt, mọi việc đều hay, tiến bộ khả quan mọi người vừa lòng. Văn chương tròn trịa lý tưởng! Không dám có những suy nghĩ gai góc không cho có những cảm xúc mới lạ độc đáo... Mà chỉ được cảm xúc thông thường bình thường tầm thường bằng phẳng công thức, tất cả gần như đã vạch sẵn. Văn chương được bào chế như những món quà lành mạnh, bởi đã được sát trùng quá kỹ lưỡng. Như kho cá rim thịt đúng theo sách dạy gia chánh…
Mà đúng ra xã hội đòi hỏi người cầm bút phải nhìn thấy những vấn đề, phát biểu những ý nghĩ, nêu lên những băn khoăn... để người đọc cùng cảm xúc cùng suy nghĩ. Có vậy xã hội mới tiến lên được. Chứ nếu tròn trịa như bánh xe thì xã hội cứ như thế mà lăn tới an toàn, hà tất còn cần đến văn chương làm gì?”
Ðó là chuyện cũ. Ðã hơn ba năm trôi qua rồi. Bây giờ chắc nói được. Cán bộ chính trị hay nhắc chừng cán bộ văn học “văn chương phải phản ảnh thực tại”. Chẳng lẽ nói thêm “… mà nhớ lựa cái thực nào… tốt tốt”. Phải hiểu ngầm lấy. May mà có ông Goócbachốp. Gần đây có xảy ra vụ Phùng Gia Lộc - Ðặng Bửu. Có Phùng Gia Lộc mà thiếu Ðặng Bửu thì tiếng kêu đâu đã vang xa đến vậy?
Thêm một điều. Hỏi “văn chương có phản ảnh thực tại không?” thì chưa đủ. Phải hỏi thêm “và phản ảnh thực tại mà có văn chương không?” Ðể ghi lại thực tại, ông thợ chụp hình chỉ cần bấm máy ảnh. Nhưng nhiếp ảnh gia nghệ thuật không ai chỉ làm có vậy. Họ loay hoay tìm mọi cách để thể hiện cho được cái đẹp…
Trong một thời gian dài, chính trị chi phối văn chương quá kỹ. Báo chí nói bây giờ cấp trên đã điều chỉnh lại, nói bớt. Phải lắm. Văn chương không phải là cái xe để chỉ chở tư tưởng chánh trị, không phải chỉ được nuôi dưỡng bằng tư tưởng chánh trị mà đủ. Cả ngay cái thân tứ đại rất vật chất này cũng đâu phải chỉ cần ba loại thức ăn glucit, protit, lipit mà thôi? Nó còn cần như vitamin chẳng hạn. Thậm chí còn cần cả cái xác, cái bã vô ích của loài rau cỏ thực vật. Nếu không có thì thầy thuốc nói sẽ sinh táo bón…
Theo Lê Phương Chi trên tạp chí Bách Khoa số tháng 6 năm 1967, thì tiểu sử của Võ Hồng như sau:
Tên thật được dùng làm bút hiệu.
Sinh ngày 5/5/1921 làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ðã cộng tác với tạp chí Bách Khoa, Văn Hữu, Mai, Giáo Dục Phổ Thông, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Tin Văn,…
Võ Hồng là con cả (3 trai 4 gái) trong một gia đình điền chủ, anh mồ côi mẹ lúc 11 tuổi. Thuở nhỏ anh học qua các trường Xã (Ngân Sơn) trường Phủ (Tuy An). Năm 1940 đậu Thành Chung xong anh ra Hà Nội học ban Tú Tài thì đồng thời anh học luôn cả Nhật Ngữ. Năm 1943 gặp lúc Hà Nội bị Ðồng Minh dội bom anh chạy luôn về quê. Năm 1945 anh giữ chức bí thư cho ông T.V.L. ở Ðà Lạt trong chính phủ Trần Trọng Kim vì anh biết Nhật Ngữ, lúc bấy giờ chính quyền rất cần người biết tiếng Nhật làm việc. Trong những ngày ở Ðà Lạt anh quen một cô bạn gái và sau ngày VM cướp chính quyền gặp lại nhau trên đường chạy loạn từ Ðà Lạt xuống Phan Rang, Nha Trang về Tuy Hòa. Hai người đã tìm hiểu nhau và sau đó một hôn lễ đã cử hành tại xã Ngân Sơn. Rồi vợ chồng Võ Hồng sống rất hạnh phúc trong những ngày kháng chiến với nhiệm vụ dạy học tại làng quê anh. Mãi đến năm 1951-1952, quân đội Pháp mở chiến dịch Atlante đổ bộ lên Tuy Hòa, để vợ ở lại nhà một mình anh theo đoàn cán bộ địa phương chạy ra vùng Bình Ðịnh. Tại đây anh đi làm thợ hớt tóc bằng cách theo một người thợ lành nghề trong vùng dù anh chưa hề hớt tóc lần nào. Sau hiệp định Geneve, tháng 8 năm 1954 anh trở về Ðà Lạt vì vợ anh dạy học tại đây. Năm 1956 anh đưa vợ con về Nha Trang. Rồi vợ anh mất để lại cho anh ba con một trai hai gái (con đầu lòng lên 9, đứa út lên 3). Anh đi dạy học từ bấy giờ đến nay. Anh dạy các môn Khoa Học, Sử Địa, Việt Văn, Pháp Ngữ, Công Dân cho các trường Lê Quí Ðôn và Bồ Ðề tại thị xã Nha Trang, trung bình anh dạy 30 tiếng mỗi tuần.
Tác phẩm gồm: tiểu thuyết Hoài Cố Nhân (Ban Mai ,1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Ðầu Non (Văn, 1968), Gió Cuốn (Lá Bối, 1968), Những Giọt Ðắng (Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc (Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay (Lá Bối, 1971). Các truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh (Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965). Khoảng Mát (An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân (Lá Bối, 1966), Bên Kia Ðường (Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng (Lá Bối, 1971)…
Ngày Từ Phụ, đọc lại văn chương Võ Hồng, để thấy ngậm ngùi hơn khi nghĩ về cuộc đời, của những bậc cha mẹ suốt đời hy sinh cho con cái…
Trong lịch sử, dự luật để chính thức hóa ngày Lễ Từ Phụ đã được nhiều lần biểu quyết tại Quốc Hội. Dự thảo luật đầu tiên vào năm 1913, rồi sau đó Tổng Thống Woodrow Wilson vào năm 1916 cũng tại cuộc phát biểu tại Spokane đề nghị một ngày lễ chính thức nhưng sau đó Quốc Hội không đồng thuận vì sợ ngày lễ này bị thương mại hóa. Năm 1924, Tổng Thống Calvin Coolidge cũng có ý định đó nhưng Quốc Hội cũng không thông qua. Ðến năm 1966, thì Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức vinh danh người cha và đề nghị chọn ngày Chủ Nhật thứ ba của tháng 6 làm ngày lễ chính thức. Mãi đến năm 1972 , Tổng Thống Richard Nixon mới chính thức ký dự thảo luật chọn ngày nói trên thành ngaỳ lễ quốc gia của Hoa Kỳ.
Có người hỏi, ở văn chương Việt Nam, anh thấy có tác giả nào viết về người cha mà anh đọc thấy thích thú và chia sẻ nhất? Câu trả lời là theo ý riêng tôi, khi tôi đọc Võ Hồng, viết về người bác mà ông coi như cha trong “Người Về Ðầu Non” cũng như khi tôi biết đời sống của ông trong cảnh gà trống nuôi con, tôi thật nhiều thương cảm. Một đời sống qua đi, của Việt Nam với những tình cảnh sinh hoạt của nông thôn và đô thị miền Nam từ năm 1930 đến sau này, đã in đậm dấu ấn trong văn chương. Và ở đó, con người còn ảnh hưởng đời sống cũ xưa đến những người sống trong thời đại ảnh hưởng của chiến tranh khốc liệt được phác họa lại, sâu sắc hiền hòa nhưng không kém phần nặng mang thời đại tính. Ở một khía cạnh nào đó, Võ Hồng đã viết như sống lại cuộc đời mình.
Nhà văn Võ Hồng sống trong cảnh gà trống nuôi con chắc phải chật vật trong cuộc sống. Ông là một nhà giáo và đời sống cũng khá thanh bạch. Vợ ông mất sớm và ông đã nuôi ba người con nên người. Ông đã viết một bài thơ để nói về tình cảnh của mình. Bài thơ Sau Ba Mươi Năm.
nhờ đất cho món ăn
nhờ nước đưa thức uống
hô hấp nhờ khí trời
mà cây đầy sức sống
cũng vậy ba đứa con
truyền cho cha sinh lực
lao khổ đầu sớm hôm
cô đơn dù nhức buốt
nhưng nhìn con lớn khôn
cha quên mọi cơ cực
đứa út vừa lên ba
biết mẹ qua tấm ảnh
miệng chỉ quen gọi cha
khi đói và khi lạnh
chị lớn chín tuổi tròn
đóng vai người mẹ nhỏ
vội vã học điều khôn
cửa nhà tập coi ngó
thằng giữa khi vào lớp
tên mình tưởng tên ai
thầy hỏi không biết đáp
nghe chim hơn nghe bài
nay các con nên người
mỗi đứa đi một ngả
mình cha căn nhà xưa
trông vừa quen vừa lạ
không còn ngày gian khổ
chỉ dư ngày tiêu điều
vắng con như cây cỏ
héo úa giữa quạnh hiu
tuổi già ngồi gẫm lại
quý nhất của đời mình
là ba đứa con dại
cha nuôi đến trưởng thành.
Tình cảnh của nhà văn Võ Hồng bây giờ thì cô đơn trong tuổi già. Có lúc ông sống tại thị xã Nha trang và chắc là thanh bạch nghèo nàn như phóng viên Cao Chư mô tả trong bài viết đăng trên Kiến Thức Ngày Nay số tháng 6 năm 1994:
… Lần theo địa chỉ tôi tìm đến Hồng Bàng một đường phố vắng vẻ của Nha Trang. Bước vào căn phòng ông ở tôi ngẩn người vì trước mắt tôi không phải là một người năm sáu mươi như tôi tưởng khi nhìn trong bức ảnh, mà là một ông lão! Ðúng, một ông lão trán hói cao quá đỉnh đầu, má hóp, người cao gầy. Trong bộ đồ pijama và vắt ngang vai chiếc áo khoác màu hoa đào đã phai, mắt đeo kính trông ông như một đạo sĩ phương Ðông thuở nào. Võ Hồng đang ngồi trên chiếc võng dừa cột vắt qua căn phòng nhỏ, một tay cầm tờ báo, tay kia đang nâng một chiếc ang-gô. Có lẽ ông đang ăn sáng. Thấy khách lạ ông có vẻ hơi lúng túng vì trong phòng ngoài mấy thứ đồ đạc , sách vở chẳng có bàn ghế gì cả. Tôi trấn an ông rồi ngồi xuống sàn gạch. Tôi tự giới thiệu tên mình…
Ðoạn văn ấy nghe như có một chút gì vương vướng. Của một người cầm bút sống trong một hoàn cảnh nghèo khổ mà lại bất an. Những đứa con của ông hình như bây giờ đều sống ở hải ngoại để lại một ông già cô đơn sống cảnh xế bóng buồn phiền. Một hình ảnh người cha Việt Nam suốt đời hy sinh cho con bây giờ sống thật tội nghiệp…
Trong văn chương chắc nhà văn Võ Hồng có viết nhiều về đề tài người cha. Ông đã viết tùy bút “Một Bông Hồng Cho Cha” với cả tấm lòng.
Ngày Vu Lan nhiều chùa tổ chức lễ hội bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Ðể tỏ lòng thương nghĩ tới cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho Cha. Cha còn sống: nơ xanh. Cha đã mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha mẹ song toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn cha mất: hoa hồng nơ trắng. Mẹ mất cha còn: hoa trắng nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng nơ trắng. Người dự lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần một em nhỏ tuổi chừng lên tám đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh tủi thân khóc òa và cả lễ đường cũng khóc òa theo. Cha cũng như mẹ, rồi sẽ một ngày
Ðỉnh hoa biểu từ khơi bóng hạc
Nên mỗi người con đều phải vội vàng.
Trả hiếu không bao giờ đủ không được coi là dư bởi tình cha thương con là cho chứ không phải cho vay để có thể gọi là trả đủ.
Những tùy bút như Một Bông Hồng Cho Cha, Nghĩ Về Mẹ, Nửa Chữ Cũng Thầy, Lời Sám Hối Của Cha,… thấm đẹp nét đẹp của nền văn hóa Ðông phương. Có người hỏi với tình trạng đất nước lúc đó, ảnh hưởng của văn chương Võ Hồng có tác dụng nào trong đời sống xã hội Việt Nam?
Chính nhà văn Võ Hồng trả lời câu hỏi ấy khi có một ký giả hỏi một câu cũng tương tự như vậy:
Những tùy bút của tôi không nhằm tạo ra được sức bật mà chỉ khiêm tốn góp phần đắp giữ nền móng đạo đức trong xã hội. Ngạc nhiên và cảm động biết bao khi rất nhiều bạn đọc thuộc mọi lứa tuổi viết thư cho tôi tỏ ý tán thưởng. Có người mượn tạm tấm ảnh của mẹ bạn mình, đem lắp vào chỗ họa sĩ minh họa nơi bài báo “Nghĩ Về Mẹ” đem photocopy. Rồi gửi tặng bạn nhân sinh nhật của mẹ bạn. Giá rẻ chỉ có vài trăm. Rẻ hơn đóa hoa hồng mau tàn. Nhiều người đã khóc khi đọc bài “Lời Sám Hối Của Cha”…
Truyện dài “Người Về Ðầu Non”, nhân vật người bác ấy là anh ruột của người cha không có con nên nhận tác giả làm con nuôi. Và trong suốt cuộc đời của ông đã là bóng mát để che chở cho con cháu. Ðọc Người Về Ðầu Non, tôi như thấy hiển hiện trước mắt người bác già quê mùa đã đi theo tác giả suốt một hành trình dài, một mẫu nhân vật đặc thù người miền Nam Trung Bộ, sống và thở quặn đau theo từng biến cố của đất nước. Một điều rõ nét, trong bất cứ hoàn cảnh nào, vẫn là thái độ hy sinh quên mình và tình thương là cái mộc che chắn tất cả những bất tường không may cho những người mà ông thân yêu. Nhân vật ấy vui cái vui của con cái, hãnh diện vì thành công cũng như buồn vì nỗi thăng trầm của chúng.
Lại có người nhận xét rằng trong Người Về Ðầu Non hình ảnh nông thôn miền Nam Trung Bộ làm người đọc thích thú và là một nét riêng biệt đối chiếu với các tác giả miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc… Ðó là phản ảnh từ lòng yêu thương quê hương qua người qua cảnh. Tả cảnh, tác giả đã mang vào trong đó hồn người. Cảnh, tuy có lúc chỉ là những phác họa thoáng qua nhưng mang lại những cảm giác hồn hậu của quê hương. Và người, qua hình ảnh của sông của núi cũng tượng trưng cho một đời sống phong tục cũ xưa nhưng lại gợi nhiều hoài cảm.
Ngôn ngữ mà các nhân vật trong “Người Về Ðầu Non” có phong vị của địa phương quê mùa có phải là một đặc tính của truyện dài này. Có người cho là thô thiển nhiều địa phương tính. Nhưng cái ngôn ngữ bình dân ấy lại gợi lại những mảnh đời sống thực và làm sinh động hơn. Chính trong một cuộc phỏng vấn của nguyệt san Văn (số 209 ngày 1/9/1972), tác giả Võ Hồng đã nói:
Ước vọng của tôi là tìm gặp những ông nông dân già, ông chài cá lưới tôm, ông thợ rừng... nghe họ kể chuyện làm ăn âu lo hy vọng. Khi được in một loạt những cuốn sách như Hồi Ký Của Một Ngư Phủ Ở Tiên Châu, Phút Nói Thật Của Một Nông Dân Miền Hóc Lá,... thì ông tưởng tượng xem độc giả các thế hệ sau sẽ yêu quê hương tha thiết đến bực nào. Quê hương được nuôi dưỡng được bồi đắp được bảo vệ bằng sức cần lao âm thầm của đại đa số những người sống đạm bạc nghèo nàn nơi thôn quê chớ đâu phải nhờ lớp thị dân sung sướng ở thành phố?
Thi sĩ Phạm Công Thiện khi viết về kỷ niệm với nhà văn Võ Hồng, trong tập thơ Ngày Sinh Của Rắn có hai câu thơ, tả cảnh mà tả tình, đẹp một cách đơn giản như phong vị của những câu Hai-Ku:
Mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông
Và, hình như từ hai câu thơ này, Võ Hồng đã viết truyện ngắn “Hoa Khế Lưng Đồi” như một cách thế đáp tạ người tri kỷ.
Trong một lá thư gửi cho tác giả “Hoài Cố Nhân”, thiền sư thi sĩ họ Phạm viết:
Anh V.H. ạ , anh có cần gì phải thuyết giảng philo? Tất cả những trang văn anh, những trang văn rất từ tốn khiêm nhượng kia đều tiềm tàng những tư tưởng triết học rất sống. Nó cao hơn philo nữa, bởi nó là sagesse của quả tim.
Và một triệu trang giấy Triết Học cũng không đáng giá bằng một tiếng đập của con tim. Anh có nghe rõ chưa? Tôi muốn hét to lên như vậy.
Anh có nghe tim con người đập trong những trang “Xuất Hành Năm Mới”, trong “Trận Đòn Hòa Giải”? “Xuất Hành Năm Mới” còn cảm động muôn vạn lần hơn những chuyện mà người ta cho rằng buồn nhất! Những đứa nhỏ Hằng, Hào, và Thủy trong “Xuất Hành Năm Mới” và “Trận Đòn Hòa Giải” là những hình ảnh đau thương nhất trên đời, là những hình ảnh tượng trưng cho tất cả những đứa trẻ ở trần gian này…
Phạm Công Thiện tâm sự như thế, dù trong ngôn ngữ của ông có một chút gì hơi phấn khích nhưng cũng khá thành thật.
Còn với tôi, Võ Hồng đã có một góc kỷ niệm riêng mình từ lúc còn bắt đầu vào ngôi trường trung học. Lúc ấy , hình như năm 1960, buổi sáng trước cổng trường có mấy người bán sách dạo trải tấm bạt bầy hàng bán. Trong đó có cuốn Hoài Cố Nhân, tác phẩm mà sau này chính tác giả nhìn lại: “Hoài Cố Nhân, nhìn lại mà thương, nghèo nàn, in sai nhiều và chắc chắn có bao nhiêu non nớt”, bìa mầu xanh lam có bức tranh người con gái mặc áo dài cổ thật cao. Tự nhiên tôi thấy thích quyển sách ấy, giở từng trang sách đọc “cọp” nhiều lần và tôi học được câu chữ Hán “tam nhân nhật, hoài cố nhân” và biết thêm ba chữ tam, nhân, nhật ghép lại thành chữ xuân. Ông thầy dạy Việt văn đã tròn mắt ngạc nhiên khi tôi phát biểu về điều mình học lóm trong lớp bởi một đứa học trò đệ thất khờ khạo mà “thông thái” đến như vậy. Ðâu biết rằng tôi đã nhịn đói cả một tuần quà sáng để có được cuốn sách này. Và, từ đó về sau, mỗi khi vẽ hình khuôn mặt phụ nữ tôi lại nhớ đến hình bìa sách Hoài Cố Nhân và tự nhiên vẽ cái cổ thật cao bắt chước như họa sĩ nào đã trình bày...
Kỷ niệm ấy vụn vặt nhưng điều mà tôi thích từ Võ Hồng là những truyện mà ông mô tả về cảnh về người của một đất nước và một thời kỳ khá lạ lùng với tôi. Tuy Hòa, một nơi chốn mà tôi chỉ ghé qua có vài lần trong thời kỳ ở lính ở Pleiku, nơi có hai phi trường Tuy Hòa North, Tuy Hòa South khá lớn và tôi nghĩ là nơi có giá sinh hoạt thấp nhất vùng 2. Ðồ ăn thức uống ở đây rẻ và ngon, mỗi lần có người bạn nào từ Tuy Hòa biệt phái về là có thịt ngon, có cua cá tươi mà giá thì khá rẻ. Ấn tượng về nơi ấy chỉ dung dị như thế.
Nhưng, đọc những trang sách của Võ Hồng, tôi lại thấy một đời sống của một thời đã qua, hiển hiện. Tôi chỉ là một người đọc sách và viết những cảm nghĩ của mình trong tư cách một độc giả. Tôi soi tìm trong trang sách những gửi gấm mà tác giả muốn tỏ bầy bằng chữ nghĩa của mình. Với chủ quan như vậy, tôi vẫn nghĩ Võ Hồng là một người yêu quê hương rất mực. Ông yêu Tuy Hòa, ông thương Phú Yên như một câu nói với nhà văn trẻ đã tử trận tại đồn Nora ở Phan Thiết, Y Uyên, người được dựng tượng tại thành phố Tuy Hòa vì những truyện ngắn viết về nơi chốn này: “Một nhà văn chân chính bao giờ cũng nặng tình với mảnh đất nơi nó cư ngụ”. Cả hai nhà văn, Võ Hồng và Y Uyên, cùng nặng tình với Tuy Hòa, với Phú Yên, và cùng chia vui sẻ buồn với đất và người, cũng như tìm được nét văn chương trong đời sống ấy trong một thời đại chiến tranh đầy giông tố.
Ðọc “Người Về Ðầu Non”, đọc “Hoa Bươm Bướm”, đọc “Con Suối Mùa Xuân”,… để thấy lại một thời đã qua, sinh động và mới lạ trong văn chương vì ít người viết nhắc tới.
Trả lời câu hỏi phỏng vấn của Nguyễn Nam Anh, nhà văn Võ Hồng tâm sự:
… Ðời sống nông thôn Việt Nam được ghi lại trong văn chương, bắt đầu từ thời Tự Lực Văn Đoàn nhưng mới chỉ là nông thôn miền Bắc quanh quẩn ở miền châu thổ sông Hồng Hà. Ông Lan Khai, ông Thế Lữ giới thiệu thêm miền Trung Du, miền Thượng Du Bắc Việt. Trong thời cực thịnh đó của Tự Lực Văn Đoàn thì nông thôn miền Trung Việt gần như không được nói tới. Cho mãi đến Ðệ Nhị Thế Chiến, nếp sống dân gian ở miền Trung cũng chỉ được mô tả ít ỏi qua vài sáng tác của Nguyễn Tuân (miền Thanh Hóa) Bùi Hiển (miền Nghệ Tĩnh), Phan Du, Nguyễn Văn Xuân (miền Thuận Quảng). Khi đất nước bị qua phân, miền Bình Ðịnh có thêm ông Võ Phiến, đất Quảng có thêm ông Vũ Hạnh. Ðây tôi chỉ nói đến những người viết văn xuôi viết truyện ngắn truyện dài trong đó phần mô tả con người và môi trường sinh hoạt được coi là trọng tâm. Tôi chưa đề cập đến những thi sĩ. Ðến bây giờ (cuộc phỏng vấn thực hiện năm 1972) thì không khí sáng tác có phần nhộn nhịp hơn mỗi địa phương đều sản xuất ra nhiều cây bút trẻ sống gắn chặt với quê hương mình và nói lên cái khổ của đồng bào mình…
Võ Hồng đã mô tả quê hương mình bằng cái tâm của một người sống và chết cùng với mồ mả cha ông. Từ phong tục đến cách sinh hoạt thường ngày, từ ngôn ngữ quê kiểng đến suy tư dân giã, những mẫu chân dung ấy linh động trong một ký ức đầy ắp những xúc cảm. Tôi nhớ, trong những số báo xuân của những tạp chí văn học sáng danh thời đó như Văn, Bách Khoa,..., truyện ngắn Võ Hồng đã đem lại nhiều phong vị Tết. Ðọc thử một truyện như “Ngày Xuân Êm Đềm” tự nhiên tôi như lây cái cảm giác nôn nao ngày nào khi mùa xuân Tết thấp thoáng trong những luống cải, tần ô, xà lách ở ven những sân nhà, trong những bụi vạn thọ đi xin từ chùa Châu Lâm về trồng. Xuân cũng mơ hồ trong không khí của những chuyến đò dọc xuôi ngược chợ Ðồng Dài, chợ gò Chai, chợ Gành, chợ Thứ, từ tiếng ốc tù và rền rĩ trong đêm đến ánh đèn chai giăng giăng sáng rực bờ sông của những phiên chợ Tết. Tháng Chạp với những buổi chợ khuya có tiếng pháo tre nổ đì đùng trong nỗi náo nức của bọn trẻ con vui sướng với những món đồ chơi đặc thù ngày Tết như con gà nắn bằng đất tô phẩm xanh đỏ. Cảnh rộn rịp sửa soạn nhà cửa, giã lá me chua ngâm nước để chùi lư đèn đỉnh thờ bằng đồng, nấu những món ăn đặc tết, bánh chưng bánh tét, làm rim mứt,… Ngày mồng một, cả làng ròn rã đầy những tiếng guốc. Những bàn chân trần quen đất đá nay e dè trên đôi guốc mộc là một hình ảnh Tết nhiều ấn tượng nhất ở thôn quê. Ðọc lại trang từnng trang, vẫn thấy khoái và như sống lại một thời, khi tuổi đời đã lớn như bây giờ…
Võ Hồng mang quê hương của mình vào trong tác phẩm, ông viết không phải chỉ như một địa dư chí ghi chép lại những dữ kiện mà còn mang cả cái tâm của mình vào trong từng câu văn, từng dòng chữ. Cái đẹp của chữ nghĩa Võ Hồng là nơi tính đôn hậu, là sự hướng thượng luôn nhìn về cái thiện cái tốt lành. Truyện của ông, kể về đời thường, với những chi tiết quá gần gũi đến nỗi không thể nhận ra, đã có sức sống của sự chân thành, của những quặng nguyên chất đời sống ngồn ngộn sinh lực. Ông đã viết:
Thế hệ của chúng tôi bị chiến tranh tàn phá quá nhiều, một số lớn đã chết, những nếp sống cũ lần lượt bị xóa đi, thay thế bằng nếp sống mới. Tôi nghĩ rằng nếu tôi dâng trọn cả cuộc đời của tôi để dựng lại cái dĩ vãng đó cũng vẫn còn chưa đủ… vậy tôi viết về những kỷ niệm dĩ vãng, tôi nhằm vào việc lấp một cái hố trống. Tôi muốn các thế hệ đàn em có dịp thiết tha gắn bó với quê hương…
Viết về quê hương xa cách, dường như không có ai nhiều thiết trao gửi hơn Vũ Bằng với “Thương Nhớ Mười Hai”, với “Miếng Ngon Hà Nội”. Cũng như, viết về Tuy Hòa, về Phú Yên không ai thuần phác tâm cảm hơn Võ Hồng. Ở ông Vũ, miền Bắc quá xa vời chỉ còn trong hồi ức trong tâm tưởng. Với ông Võ, quê hương vẫn còn đây những cảnh vật nhưng người thì đã xa và đời sống đã khuất nẻo vào không gian thời gian nào, có xa vời nhưng lại gần gũi. Tuệ Sĩ đã nhận xét khá xác đáng toàn bộ tác phẩm của Võ Hồng:
Ðó là một thứ tình yêu chỉ có trong thế giới của hoài niệm. Nó có thể chọn một hình thức thích hợp để xuất hiện trong văn chương. Tôi muốn nói các truyện ngắn của Võ Hồng. Nơi ông, có lẽ có một tình yêu đã trở thành vĩnh cửu, đã muôn đời câm lặng được chôn kín dưới lòng đất. Nó thấm vào các truyện ngắn của ông, làm chất liệu hoặc khi ngấm ngầm hoặc khi lộ liễu dưới dáng dấp mệt mỏi nhiều tư lự nhiều phán xét.
Truyện dài của ông phần lớn cũng chỉ là những truyện ngắn được ráp lại. Có thể đây chỉ là cái nhìn phiến diện. Nhưng tôi tưởng tượng rằng, nếu cắt riêng từng đoạn trong truyện dài của ông, để chúng thành những đoạn biệt lập, chúng ta dễ bắt gặp nhiều cái nhìn của một người từng trải khôn ngoan trong đời sống và khôn ngoan cả trong tình yêu. Do đó tác phẩm của ông mang nhiều chứng tích xã hội và thời đại. Nhưng nếu nhà văn chỉ ngồi kể lể những chuyện đời đi qua trước mắt dù bằng một giọng điệu trung thực đến mấy vẫn không tránh khỏi tự gán cho mình vai trò trạng sư của một thời đại. Ngôn ngữ của loài người không thể chỉ là phương tiện cho những tranh chấp và hòa giải. Mỗi người đều phải sống bằng cái nhìn phê phán, và đau khổ vì phê phán - phê phán và bị phê phán. Ngôn ngữ không thể chỉ là phương tiện cho sự phê phán…
Trước năm 1975 , ông viết rất mạnh và nhiều. Sau 1975, ông uể oải.Tại sao lại như thế? Chúng ta hãy nghe ông tâm sự:
Nhắc lại chuyện cũ. Năm 1985, tạp chí Văn Nghệ Phú Khánh đặt câu hỏi “Xin cho những nhận xét về tình hình văn nghệ ở địa phương ta sau mười năm”. Tôi ghi những suy nghĩ rồi trao cho anh tổng biên tập, vừa nói: “Tôi có thể viện cớ là bệnh, là bận để khỏi trả lời. Nhưng lòng tự trọng không cho phép tôi nói dối. Nhưng đưa anh đọc rồi xin anh cho lại. Ðừng đăng. Bởi nếu đăng thì tôi bị khó khăn”. Sau đây là tờ giấy tôi trả lời:
“Có một nhược điểm thường gặp nơi văn chương địa phương cấp nhỏ cấp thấp. Ðó là đọc xong thấy tất cả đều tốt, mọi việc đều hay, tiến bộ khả quan mọi người vừa lòng. Văn chương tròn trịa lý tưởng! Không dám có những suy nghĩ gai góc không cho có những cảm xúc mới lạ độc đáo... Mà chỉ được cảm xúc thông thường bình thường tầm thường bằng phẳng công thức, tất cả gần như đã vạch sẵn. Văn chương được bào chế như những món quà lành mạnh, bởi đã được sát trùng quá kỹ lưỡng. Như kho cá rim thịt đúng theo sách dạy gia chánh…
Mà đúng ra xã hội đòi hỏi người cầm bút phải nhìn thấy những vấn đề, phát biểu những ý nghĩ, nêu lên những băn khoăn... để người đọc cùng cảm xúc cùng suy nghĩ. Có vậy xã hội mới tiến lên được. Chứ nếu tròn trịa như bánh xe thì xã hội cứ như thế mà lăn tới an toàn, hà tất còn cần đến văn chương làm gì?”
Ðó là chuyện cũ. Ðã hơn ba năm trôi qua rồi. Bây giờ chắc nói được. Cán bộ chính trị hay nhắc chừng cán bộ văn học “văn chương phải phản ảnh thực tại”. Chẳng lẽ nói thêm “… mà nhớ lựa cái thực nào… tốt tốt”. Phải hiểu ngầm lấy. May mà có ông Goócbachốp. Gần đây có xảy ra vụ Phùng Gia Lộc - Ðặng Bửu. Có Phùng Gia Lộc mà thiếu Ðặng Bửu thì tiếng kêu đâu đã vang xa đến vậy?
Thêm một điều. Hỏi “văn chương có phản ảnh thực tại không?” thì chưa đủ. Phải hỏi thêm “và phản ảnh thực tại mà có văn chương không?” Ðể ghi lại thực tại, ông thợ chụp hình chỉ cần bấm máy ảnh. Nhưng nhiếp ảnh gia nghệ thuật không ai chỉ làm có vậy. Họ loay hoay tìm mọi cách để thể hiện cho được cái đẹp…
Trong một thời gian dài, chính trị chi phối văn chương quá kỹ. Báo chí nói bây giờ cấp trên đã điều chỉnh lại, nói bớt. Phải lắm. Văn chương không phải là cái xe để chỉ chở tư tưởng chánh trị, không phải chỉ được nuôi dưỡng bằng tư tưởng chánh trị mà đủ. Cả ngay cái thân tứ đại rất vật chất này cũng đâu phải chỉ cần ba loại thức ăn glucit, protit, lipit mà thôi? Nó còn cần như vitamin chẳng hạn. Thậm chí còn cần cả cái xác, cái bã vô ích của loài rau cỏ thực vật. Nếu không có thì thầy thuốc nói sẽ sinh táo bón…
Theo Lê Phương Chi trên tạp chí Bách Khoa số tháng 6 năm 1967, thì tiểu sử của Võ Hồng như sau:
Tên thật được dùng làm bút hiệu.
Sinh ngày 5/5/1921 làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ðã cộng tác với tạp chí Bách Khoa, Văn Hữu, Mai, Giáo Dục Phổ Thông, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ, Tin Văn,…
Võ Hồng là con cả (3 trai 4 gái) trong một gia đình điền chủ, anh mồ côi mẹ lúc 11 tuổi. Thuở nhỏ anh học qua các trường Xã (Ngân Sơn) trường Phủ (Tuy An). Năm 1940 đậu Thành Chung xong anh ra Hà Nội học ban Tú Tài thì đồng thời anh học luôn cả Nhật Ngữ. Năm 1943 gặp lúc Hà Nội bị Ðồng Minh dội bom anh chạy luôn về quê. Năm 1945 anh giữ chức bí thư cho ông T.V.L. ở Ðà Lạt trong chính phủ Trần Trọng Kim vì anh biết Nhật Ngữ, lúc bấy giờ chính quyền rất cần người biết tiếng Nhật làm việc. Trong những ngày ở Ðà Lạt anh quen một cô bạn gái và sau ngày VM cướp chính quyền gặp lại nhau trên đường chạy loạn từ Ðà Lạt xuống Phan Rang, Nha Trang về Tuy Hòa. Hai người đã tìm hiểu nhau và sau đó một hôn lễ đã cử hành tại xã Ngân Sơn. Rồi vợ chồng Võ Hồng sống rất hạnh phúc trong những ngày kháng chiến với nhiệm vụ dạy học tại làng quê anh. Mãi đến năm 1951-1952, quân đội Pháp mở chiến dịch Atlante đổ bộ lên Tuy Hòa, để vợ ở lại nhà một mình anh theo đoàn cán bộ địa phương chạy ra vùng Bình Ðịnh. Tại đây anh đi làm thợ hớt tóc bằng cách theo một người thợ lành nghề trong vùng dù anh chưa hề hớt tóc lần nào. Sau hiệp định Geneve, tháng 8 năm 1954 anh trở về Ðà Lạt vì vợ anh dạy học tại đây. Năm 1956 anh đưa vợ con về Nha Trang. Rồi vợ anh mất để lại cho anh ba con một trai hai gái (con đầu lòng lên 9, đứa út lên 3). Anh đi dạy học từ bấy giờ đến nay. Anh dạy các môn Khoa Học, Sử Địa, Việt Văn, Pháp Ngữ, Công Dân cho các trường Lê Quí Ðôn và Bồ Ðề tại thị xã Nha Trang, trung bình anh dạy 30 tiếng mỗi tuần.
Tác phẩm gồm: tiểu thuyết Hoài Cố Nhân (Ban Mai ,1959), Hoa Bươm Bướm (Lá Bối, 1966), Người Về Ðầu Non (Văn, 1968), Gió Cuốn (Lá Bối, 1968), Những Giọt Ðắng (Lá Bối, 1969), Nhánh Rong Phiêu Bạc (Lá Bối, 1970), Như Cánh Chim Bay (Lá Bối, 1971). Các truyện ngắn: Lá Vẫn Xanh (Thời Mới, 1962), Vết Hằn Năm Tháng (Lá Bối, 1965). Khoảng Mát (An Tiêm, 1966), Con Suối Mùa Xuân (Lá Bối, 1966), Bên Kia Ðường (Mặt Trời, 1968), Trầm Mặc Cây Rừng (Lá Bối, 1971)…
Ngày Từ Phụ, đọc lại văn chương Võ Hồng, để thấy ngậm ngùi hơn khi nghĩ về cuộc đời, của những bậc cha mẹ suốt đời hy sinh cho con cái…