Tạp Ghi Văn Nghệ của NGUYỄN MẠNH TRINH
Những nhà văn Hoa Kiều? Trải dài suốt chiều dài văn học chúng ta cũng có những nhà văn có nguồn gốc đó. Họ viết văn, ở nơi chốn họ sống nhưng vẫn nhớ nhung và hướng vọng về quê hương thứ hai ở bên nội hay bên ngoại của mình. Tâm tư ấy, tâm sự ấy, đã tạo thành một vóc dáng văn chương đặc biệt.
Những nhà văn Hoa Kiều? Trải dài suốt chiều dài văn học chúng ta cũng có những nhà văn có nguồn gốc đó. Họ viết văn, ở nơi chốn họ sống nhưng vẫn nhớ nhung và hướng vọng về quê hương thứ hai ở bên nội hay bên ngoại của mình. Tâm tư ấy, tâm sự ấy, đã tạo thành một vóc dáng văn chương đặc biệt.
Nhà thơ Hồ Dzếnh
Năm 1943, vào lúc thịnh thời của thơ mới, nhà xuất bản Á Châu cho ra đời một tập thơ khá lạ: Tập thơ Quê Ngoại của Hồ Dzếnh với lời giới thiệu:
Lần đầu tiên thi ca Việt Nam được tô điểm một cách trau chuốt bằng ngọn bút linh diệu của một nhà thơ ngoại quốc.
Thực ra, nói nhà thơ ngoại quốc là chưa chính xác lắm, nhà thơ Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh (phát âm theo giọng Quảng Ðông là Hồi-Tsìu-Ding, thu gọn lại là Hồi Dinh, nghe âm không được hay lắm nên tự đổi lại là Hồ Dzếnh). Hồi đó những người trong làng văn nghệ vẫn cứ trêu đùa gọi ông là Hồ Dinh và có người còn đặt ra một vế đối “Hồ Dinh dính hồ hồ chẳng dính” và có người đối là “Ngọc Giao giao ngọc ngọc không giao” (mượn tên nhà văn Ngọc Giao) hoặc là “Vũ Bằng bằng vũ vũ chưa bằng” (mượn tên nhà văn Vũ Bằng), nhưng tất cả đều chưa được hay và chỉnh lắm...
Ông là một người có cha Tàu mẹ Việt. Ông viết về đất nước quê hương của mẹ: Quê Ngoại. Cha ông tên là Hà Kiến Huân, gốc người Quảng Ðông, Trung Hoa di cư sang Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ 19 gặp mẹ ông là bà Ðặng Thị Vân, một cô gái chở đò trên sông Ghép, Thanh Hóa. Hai người lập gia đình và sinh sống bằng cách buôn bán và đổi chác hàng hóa trên một con đò dọc nhỏ xuôi theo các bến chợ ven sông. Có lần ông viết:
Dòng máu Trung Hoa đến tôi không còn nguyên vẹn nữa. Nhưng đó là dòng máu của cội nguồn, quê cha đã hòa chung cùng dòng máu Việt Nam để làm nên tâm tư tình cảm và văn phong của “Chân Trời Cũ”. Thêm vào đó là cuộc sống quá ư nghèo nàn tù túng của một làng quê với những số phận của con người hẩm hiu nghèo khổ và tôi gần gũi thân yêu ngay từ khi còn thơ ấy đã tạo dựng cho tôi cái “đất” để viết văn và trở thành cảm hứng khơi nguồn cho tôi trong sáng tạo.
Tập thơ Quê Ngoại từ khi ra đời đã là một viên châu ngọc của thi ca Việt Nam. Nhiều bài thơ, đã trở thành bất tử và ngôn ngữ ấy đã biểu hiện được tâm tình một thời của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Tri Tân đã có nhận xét:
Tên tuổi của người Minh Hương ấy, văn học quốc ngữ không nề hà gì mà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu những nhà văn hữu tài khác...
Trong tập thơ, người yêu thơ đã tìm ra được rất nhiều những bài thơ tuyệt tác. Có những bài thơ được phổ nhạc và trở thành quen thuộc đến nỗi như là một ngôn ngữ thường hằng và sống động.
Những câu thơ thật quen thuộc và hình như lúc nào cũng tiềm tàng những cuộc sống riêng, những tâm tư riêng nên đã thành những ấn tượng không thể phai nhòa trong cảm quan người nhận.
Năm 1942, Hồ Dzếnh in “Chân Trời Cũ”. Một gia đình dòng tộc người Minh Hương được phác thảo lại trong những thiên truyện ngắn rất gần với những trang tự thuật. Nhân vật xưng tôi, có khi là chính bóng dáng của tác giả, tuy được phác họa trong sự cố ý làm mờ nhạt đi để những nhân vật khác nổi bật lên. Một người cha người Hán giang hồ đi sang xứ người lập nghiệp gặp người mẹ người Việt và thành một tiểu gia đình mà số phận họ buộc trói theo dòng đời trôi nổi. Người mẹ Việt, là hình bóng muôn đời của sự hy sinh, là gà mẹ xòe cánh ra ấp ủ đàn con giữa những đe dọa của cuộc đời. Rồi những người thân của nhân vật xưng tôi: chú Nhì, người anh cả, đứa cháu đích tôn, cô em Dìn, chị đỏ Ðương, người chị dâu Trung Hoa, ông anh hai trụy lạc,… tất cả sống trong một xã hội mà những lề thói, những phong tục là những sợi dây buộc chặt vào một đời sống mà sự thiếu thốn và nghèo khổ luôn luôn lai vãng…
Trong Chân Trời Cũ chúng ta thấy một đời sống cũ đã qua nay trở lại từ cái tâm hoài cổ, từ những suy tư bắt nguồn từ sự nâng niu những kỷ niệm khó quên của một đời người. Và, vì sống ở xứ sở bên mẹ nên quê ngoại lại gần gũi hơn và chan chứa tình cảm.
Hồ Dzếnh cũng có lần nói về tác phẩm Chân Trời Cũ của mình:
Tôi là kẻ ít tin nhất rằng loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên được mang danh là Nhà Văn tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh cô xát với cõi đời chúng ta để cố gắng nói ra nỗi lòng u kín đã nghiêng về cuộc sống bên trong. Nhưng trên cả Tình và Tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh từ ngàn thu, một “Triều Thiên” mà thế kỷ nào cũng ao ước, thèm khát đó là Tấm Lòng.
Nhà văn Lý Lan
Thời tiền chiến có nhà văn mang hai dòng máu Việt - Trung Hoa, thì về sau này có một nhà văn khác cũng mang hai dòng máu cha người Quảng Ðông mẹ người Lái Thiêu, nhà văn nữ Lý Lan.
Lý Lan là một nhà văn nữ khá nổi danh ở Việt Nam có truyện ngắn được giảng dạy ở chương trình văn, bậc trung học ở trong nước. Cô cũng là một thi sĩ và là một dịch giả đã chuyển ngữ truyện Harry Potter sang Việt ngữ. Trong thực tế, cô là một nhà văn người Việt gốc Hoa, và cũng là một nhà văn người Mỹ gốc Việt. Cha cô người Quảng Ðông, huyện Triều Dương, thành phố Sán Ðầu. Mẹ cô người Lái Thiêu và cô sinh ra ở Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Và cô lấy chồng người Mỹ, một giáo sư đại học, định cư ở cả hai nơi, Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng tôi vẫn gọi cô là một nhà văn nữ Hoa Kiều.
Tại sao? Bởi vì, trong các tác phẩm của cô, tôi thấy rõ nét chân dung của một người gốc Hoa với tất cả tâm tư, vóc dáng, đời sống,... được thể hiện. Những người gốc Hoa này không phải là hình ảnh của những ông chủ bụng bự, những bang chủ chi phối đời sống kinh tế chính trị ở Việt Nam. Họ cũng xa lạ với khung cảnh của Chinatown mà bất cứ ở quốc gia nào trên thế giới cũng hiện diện. Ở trong truyện của Lý Lan, nhân vật có thể là một cô gái nhạy cảm ngây thơ, là những cô cậu thiếu nhi bé nhỏ, là những ông già “các chú”, những bà “xẩm” của những xóm lao động ồn ào, những nhân vật mà thường ngày chúng ta bắt gặp trong cuộc sống gần cận. Ở trong những khung cảnh quen thuộc của Chợ Lớn, nhịp đập nhân sinh đã được vẳng nghe từ những tâm sự bình thường của những đời thường tiếp diễn. Trong đời sống ấy, của những ngày sau 1975, dường như lẩn khuất đâu đó có tiếng thở dài, “trầm và sâu”.
Có thể, vì cảm nhận từ những cuộc dời đổi. Lúc Cộng Sản chiếm miền Nam, Lý Lan là một sinh viên, rồi sau đó đi dạy học, viết văn, làm báo. Cô không viết về thời sự, nhưng ghi nhận lại cuộc sống bằng con mắt quan sát của mình. Kinh nghiệm sống làm cho cô chín chắn hơn trong những đãi lọc để có một quan niệm viết trung thực. Ðời sống thực tế với biết bao nhiêu dời đổi và cuộc sống người dân cũng ảnh hưởng theo với những khó khăn những nghiệt ngã. Lý Lan phác họa lại cuộc sống ấy, nhẹ nhàng đi tìm những chi tiết tưởng nhỏ nhoi nhưng sống động. Ðọc những truyện ngắn, độc giả có cảm tưởng như lần trải theo những tâm sự những đoạn đời mà người kể chuyện, với tâm hồn mẫn cảm và tấm lòng nhân hậu, đã viết ra.
Lý Lan kể lại đời sống và thấp thoáng ở đó, những tiếng thở dài, “trầm và sâu”. Có thể là một cảm hoài về đời sống. Có thể là một cảm giác phải có của người hay nhìn ngoái lại thời gian cũ xưa trong cơn dời đổi của xã hội. Trong truyện ngắn “Bé Sáo vào đại học”, thấp thoáng tiếng thở dài. Người mẹ, Ðiệp, bạn gái của tác giả, như một thí dụ cho tiếng thở dài ấy:
Với lý lịch của mình, Ðiệp không thể nào vào đại học và cũng không thể kiếm được một việc làm ở thành phố. Người yêu học tập cải tạo ba tháng trở về, đám cưới rồi Ðiệp theo gia đình chồng “hồi hương”. Bạn tôi xa Sài Gòn từ đó, 18 tuổi, quần jeans bạc màu sơ mi xắn tay áo cao trên cùi chỏ. Hai vợ chồng trôi dạt qua mấy vùng đất khai hoang, hồi đó gọi là kinh tế mới. Mười năm trước bắt đầu ổn định, Ðiệp rủ tôi về thăm rẫy nhà nó. Bé Sáo quấn quít gần như nhại theo cách ngồi cách đứng cách trò chuyện của “dì Lan ở Sài Gòn”. Con Sáo nhỏ mếu máo chạy theo tôi níu chéo áo tôi đòi cho lên thành phố. Ðiệp dỗ con: “Ráng học giỏi mới được lên Sài Gòn”. Sau làn khói xe và bụi đường con sáo nhỏ của tôi mím môi ghìm nước mắt nhìn theo hướng chiếc xe đò lao đi.
Chuyện kể thật, và tràn lan ở đời sống này, quen thuộc đến thành bình thường mà sao vẫn gợi ra một nỗi niềm nào trắc ẩn. Những người có lý lịch liên hệ nhiều đến chế độ cũ trong xã hội này liệu có chỗ đứng không? Hay chuyện lên Sài Gòn học đại học như một giấc mơ của những con sáo, sang sông, nhưng vẫn còn đầy bẫy sập chực chờ từ một xã hội mà con người phải tranh sống để vượt qua những khó khăn chồng chất của cuộc nhân sinh…
Một truyện ngắn khác “Dân Ngã Tư” trong tập “Sài Gòn Chợ Lớn Rong Chơi” lại là một truyện của những người không nhà chọn lề đường hè phố làm nơi cư ngụ. Và một điều lạ lùng, là sinh hoạt của góc phố ấy vẫn bình thường dù hứa hẹn cơn mưa bão sắp kéo tới. Họ, những người nghèo nhất của thành phố, vẫn an phận với cái nghèo nàn cơ cực của mình. Ai buôn bán lặt vặt cứ buôn bán, ai gây lộn cãi cọ cứ tự nhiên, và thời tiết có bão bùng cũng mặc kệ. Lý Lan viết:
Tôi nói với chị Bình: “Sắp bão gió cấp 12 không lo thân mình chưa có chỗ trú lại đi lo chuyện bao đồng”. Chị cười thản nhiên (hay hồn nhiên quá?): “Ôi , bất quá gió thổi bay tấm ni lông hay mấy giỏ đồ rách. Cầm như xui xẻo bị ‘hốt’ lòng lề đường vậy mà. Mình lo sao nổi chuyện tự nhiên của trời đất”.
Nói vậy nhưng khi mưa bắt đầu lắc rắc, chị lật đật giành giật với cơn gió tấm ni lông đang bay phần phật, cột hai chéo vô cửa sắt, còn hai chéo kia chèn mí bằng gạch để tạo một không gian hẹp hình tam giác nơi thằng Tẹo đang ngủ say…
Và tác giả kết luận:
Nhà là gì? Là một nơi ta quen thuộc, nơi ta là ta, nơi ta chia sẻ với người thân cuộc sống ở cõi đời này. Tôi hiểu vậy khi anh Su đứng ở ngã tư mà nói rằng “Nhà tui là đây”. Nhưng anh Su à, tôi vẫn không muốn đính chính điều đã viết. Ngã tư không phải là nhà.
Có phải tác giả muốn diễn tả về cuộc sống mà sự cam chịu đã thành một quán tính để vượt qua những khó khăn của kiếp người hiện tại. Hình như, tôi thoáng nghe được tiếng thở dài, “trầm và sâu”…
Lý Lan là người Việt gốc Hoa, cô lớn lên trong một xóm người Hoa và chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa bắc phương này. Có lẽ, có lúc cô cũng thấy mình đang chơi vơi giữa hai văn hóa Việt và Trung Hoa. Nhất là khi đế quốc phương bắc đang dòm ngó và tạo cho cô có cảm giác bị kỳ thị. Trong khi viết văn, cô kể chuyện nhiều khi với tư cách tự thuật và trang trải vào đó những tâm sự của mình. Những nơi chốn, khi cô sống tự thuở ấu thơ trải ra biết bao nhiêu kỷ niệm. Những nhân vật, qua những góc cạnh nhìn ngắm, ngầm chuyên chở những tâm tư, mà, qua cuộc sống, vẫn lấp lánh trong tâm thức những dư vị êm đềm, của tấm lòng đối với quê hương.
Lý Lan viết về sinh hoạt của cộng đồng người Hoa nơi cô đã sống cả một thời tuổi trẻ. Những chuyện ghi nhận từ những nơi quen thuộc hàng ngày được phác họa lại, có một chút hoài niệm và một chút trăn trở.
Bây giờ đi dạo quanh khu vực này, nằm giữa đường Trần Hưng Ðạo và Nguyễn Trãi, khoảng gần Nguyễn Tri Phương tôi cố hình dung cảnh quan đã đập vào mắt cha tôi khi ông lần đầu tiên bước chân lên từ bến đò La Cai: mấy cái xóm nhà lá đó đã cầm chân chàng lãng tử đến già! Ðất lạ quê người, nhiều địa danh nhân vật ngày đó bây giờ ông nhắc lại đọc theo âm tiếng Tiều, mà cảnh đã đổi, người không còn, chuyện chưa ghi trong sách, tôi không biết làm sao đối chiếu truy tìm. Vả lại làm sao hình dung “xóm nhà lá” ở giữa quận 5 Sài Gòn?
Cảnh cũng đổi và người đã thay, những phố Tàu ngày xưa không còn những đường nét cũ và sinh hoạt ngày nào cũng biến đổi đi. Lý Lan, làm người đi trở lại ngược dòng thời gian, trở về những con hẻm nhỏ, về những cuộc sống mà phong vị cũ đã thành những ký ức xưa. Chính cái thái độ chân thành đã làm sức lôi cuốn cho người đọc. Ði tìm lại những khoảng thời gian đã mất thật khó lắm thay!
Viết về đời thường, một công việc dễ mà khó. Làm sao trong cái hỗn độn đời sống ấy, ai cũng biết, ai cũng quen, tìm ra được những điều bất ngờ để thành lạ lùng và mang nhiều ý tình chuyên chở. Viết về một quán nước người Hoa thường hay nằm ở những ngã tư đường, đã có Sơn Nam, đã có Bình Nguyên Lộc… Cũng tả về tiếng kêu ê a của phổ ky gọi nhà bếp làm thức ăn cho thực khách, cũng có những câu chuyện làm ăn mỗi ngày giao dịch trong quán... Nhưng ở trong “Tiệm nước” của Lý Lan còn có một chút thoáng qua của thời sự, của ngày đổi tiền của Cộng Sản, và lòng trung tín của những người nghèo như bác xích lô không lợi dụng thời thế để giựt tiền của người trao gửi. Lý Lan viết như người kể chuyện, không cố tình thêm thắt, không xử dụng kỹ thuật văn chương. Nhưng, ở chính điều đó, lại là một điểm để tác giả “Sài Gòn Chợ Lớn Rong Chơi” khác với những người cầm bút khác.
Có người nói văn chương của Lý Lan có những nét mộc mạc từ tả cảnh tả người của văn chương miền Nam với những Hồ Biểu Chánh, rồi Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc,… Riêng tôi, thì thấy rằng hình như trong các câu chuyện kể, nhiều khi giản đơn không cố tình phức tạp hóa sự kiện, lại ngầm chứa những điều gì mà tôi cho là mới lạ từ văn phong diễn tả của cô. Có lúc cô là người tự thuật, nhưng có khi cái tôi của nhân vật lại là một người khác mà tôi thường gặp phong cách này trong văn học hiện đại. Tôi cảm nhận một điều, cô đã cố gắng đi tìm kiếm những cái mới mà mọi người tưởng như đã cũ…
Nhà văn Vincent Lam
Một nhà văn Hoa kiều khác, rất yêu Chợ Lớn, nơi anh đã có nhiều kỷ niệm. Ðó là nhà văn Vincent Lam. Mà đặc biệt hơn nữa, anh là con của một gia đình người Việt gốc Hoa sinh trưởng ở Chợ Lớn. Và anh đang viết một tiểu thuyết coi như là đầu tay mà chưa hoàn tất. Tiểu thuyết ấy viết về thành phố Chợ Lớn, nơi chốn mà anh không thể bao giờ quên được với những kỷ niệm của mình. Trong trang web của anh, anh có rất nhiều hình ảnh về thành phố ấy. Tôi đã có một chút thảng thốt khi nhìn lại những phong cảnh. Những nóc chợ ngói rêu, những con đường với những căn nhà cổ xây dựng từ thuở nào...
Vincent Lam là một nhà văn đã đoạt giải thưởng Giller về văn học của Canada với tập truyện ngắn “Bloodletting and Miraculous Cures”. Vincent Lam còn là một bác sĩ làm việc trong phòng cấp cứu của bệnh viện Toronto East General Hospital.
Một năm ở trên thế giới trao tặng rất nhiều giải thưởng văn chương và có nhiều nhà văn tài năng kiệt xuất, mà tại sao tôi lại muốn tìm hiểu để viết về Vincent Lam? Lý do giản dị, vì tính tò mò khi có người viết về đất nước Việt Nam, cũng y hệt như khi tôi đọc và tìm hiểu về Marguerite Duras hay Graham Greene. Vincent Lam viết “Cholon, Near Forgotten”. Một cuốn tiểu thuyết coi như tự truyện của một người mà gia đình đã có thời sống trong cộng đồng Hoa Kiều ở Chợ Lớn. Xem qua những tấm hình trên website của Vincent Lam, tôi như thấy lại một đời sống của những người Việt gốc Hoa, mà có khi họ là làng xóm láng giềng của tôi. Tôi đã sống ở vùng Chợ Lớn, mẹ tôi có sạp vải và buôn bán ở Chợ Lớn và tôi có những đứa bạn cùng lớp người Hoa nói tiếng Việt còn ngọng đớt. Ðọc những trang sách viết về những con phố cũ, những ngõ hẻm xưa, có cái thú vị của những người trở về thăm lại những đoạn ấu thời đã qua đi mãi mãi…
Vincent Lam sinh năm 1974 tại London, Ontario, trong một gia đình gốc Trung Hoa đã sinh sống ở Việt Nam trước khi di cư qua Canada. Cha của Vincent Lam đã có rất nhiều nghề nghiệp, từ nghề xây cất tới đầu bếp, và sau cùng là một chuyên gia canh nông tại Ấn Ðộ. Bốn năm sau, gia đình di chuyển tới Ottawa nơi mà Vincent Lam đã lớn lên từ những truyện kể của người cha cũng như từ các tác phẩm của C.S. Lewis và Roald Dahl, và manh nha trong óc và càng ngày càng in sâu là trở thành nhà văn. Hiểu rằng bản thân mình khó có đủ ngôn ngữ để sáng tạo của tác phẩm văn chương lớn, Lam ghi danh vào trường Y khoa của Viện Ðại Học Toronto với hy vọng rằng từ những kinh nghiệm của đời sống thực tại và những chất liệu giàu có của nghề nghiệp sẽ giúp ích rất nhiều cho mong ước ấy.
Khi Lam làm việc trên tàu Arctic với nhiệm vụ là một bác sĩ, anh tình cờ gặp nhà văn nổi tiếng Margaret Atwood và được bà ưng thuận đọc trước và nhận định các truyện ngắn của anh. Sau đó bà gửi cho anh một email chỉ có vỏn vẹn một hàng chữ: “Chúc mừng anh! Anh có thể viết văn được!” Sau đó bà đã giới thiệu Lam với nhà xuất bản Doubleday ở Canada. Hơn thế nữa, bà còn lấy một truyện ngắn của Lam và thay đổi bố cục của nó cũng như gợi ý Lam viết một truyện ngắn khác dựa trên những hiểu biết về y học của bệnh Sars. Lam thực hiện theo gợi ý của bà và viết thành truyện ngắn “Contact Tracing”. Ðây là một truyện ngắn nổi bật nhất của Lam trong tuyển tập “Bloodletting and Miraculous Cures” đoạt giải Scotiabank Giller Prize. Lam thường xuyên dành cả buổi sáng để viết văn còn buổi chiều và ban đêm thì túc trực trong phòng cứu cấp của bịnh viện Toronto. Anh làm việc trong bịnh viện và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống lại dịch bệnh Sars cũng như am hiểu những tình cảnh và tâm lý của người bệnh. Anh kể:
Ở phòng cấp cứu của bệnh viện, người y sĩ là tâm của cơn giông bão tạo ra bi kịch và căng thẳng. Chúng tôi làm việc trong một thế giới của cả hai tính chất y khoa và con người thường phối hợp lại, nơi mà tiêu chuẩn thật cao và có khi không tiên đoán trước được những trở ngại. Là bác sĩ, tôi đáp ứng tất cả những điều chung quanh tôi, và làm việc trong thế giới ấy. Là một người viết văn, tôi vận dụng tất cả để có chất sống động và mới lạ trên trang giấy.
Với những câu chuyện của bốn sinh viên y khoa: Ming, Fitz, Sri và Chen; Lam đã mở ra những thế giới của những người theo đuổi nghề nghiệp chữa bệnh cho người. Lam đã có một câu ví von:
Tôi nghĩ rằng làm cha và làm nhà văn còn khó hơn là làm nhà văn và bác sĩ vì lý do với làm bác sĩ và nhà văn thì phải lập kế hoạch để có bằng cấp. Còn khi làm cha mẹ thì không bao giờ chấm dứt được vai trò và trách nhiệm của bậc cha mẹ. Khi bạn đang chăm chú với công việc của mình và đứa con trai dập cửa thình thình và hét “Mở cửa! Mở cửa!” thì chắc chắn bạn phải đứng dậy và mở cửa.
Người cha đã để lại nhiều ấn tượng cho tâm hồn Lam. Ðó là một người đàn ông sinh trưởng ở Trung Hoa nhưng đã sống lưu lạc ở nhiều quốc gia và đã lăn lộn với nhiều nghề nghiệp. Cuộc đời ấy đã thành một ám ảnh thôi thúc Lam viết một thiên tự truyện về gia đình mình. Cuốn truyện viết về một nơi chốn mà gia đình Lam đã sống một thời gian khá lâu. Vincent Lam thố lộ:
Tác phẩm có tên là “Cholon, Near Forgotten”. Ðó là cuốn sách đầu tiên tôi định viết. Năm 14 tuổi tôi đã muốn viết nó. Khi tôi không còn làm công việc phụ trách về sức khỏe y tế cho cộng đồng, tôi lại muốn viết lại về nó. Nhưng rồi, lại băn khoăn bất định và đành viết tập truyện ngắn “Bloodletting and Miraculous cures” trước. Vậy là cuốn tiểu thuyết này đã bị đình hoãn nhiều lần.
Một lần khác, trong một cuộc phỏng vấn của CBC Radio, người con của một gia đình Trung Hoa đã là cư dân của Chợ Lớn đã phát biểu về sự đam mê viết văn của mình:
Tôi như đang bị kiệt sức như một nhà văn trong lúc đang chấm dứt một ngày cầm bút, nhưng thường thường lại làm tôi hài lòng khi đến nhà thương làm việc, bởi vì sau một ngày thất bại khi đối diện với trang giấy trắng tinh, đó là giây phút hồi sinh lại mênh mông, như khi đến phòng cấp cứu để nhìn thấy những bệnh nhân có thực của đời sống có thực với những bệnh tật, những cơn đau ngực, những vết cắt và những cơn sốt...
Một người trẻ tuổi có khi đã muốn và đã quyết định làm nhà văn trước khi trở thành bác sĩ, Lam đã nói về quyết định của đời mình:
Tôi nghĩ khi tôi ở tuổi 14,15 có lúc tôi đã ngồi vào bàn viết và đột nhiên tự nhận ra là tôi chẳng có một ý nghĩ nào để viết cả rồi tôi nghĩ tôi phải bắt buộc hội nhập vào thế giới để học hỏi một điều gì đó trước khi cầm bút viết về nó...
Cuốn sách “Cholon, Near Forgotten” kể về nhân vật chính là Percival Chen sinh ra ở một ngôi làng nhỏ ở Quảng Ðông cùng thời gian với sự suy tàn của đế chế Mãn Thanh. Ông ta bị mồ côi cha mẹ và sau cuộc xâm chiếm của quân đội Nhật Bản vào Hồng Kông thì chạy qua Việt Nam và vào Sài Gòn sinh sống. Ông ta đã tạo được sự may mắn khi làm hiệu trưởng một trường dạy Anh ngữ ở Sài Gòn nhưng lại làm mất đi cơ hội khi làm nghề cờ bạc chuyên nghiệp trong những năm chiến tranh. Khi cuộc chiến bùng nổ Chen di cư ra khỏi Việt Nam và khi sang sống ở Brisbane, Úc Châu thì bị ung thư và ở trong hoàn cảnh thời gian đợi chờ cái chết. Trong tâm cảnh ấy, Chen chỉ chờ mong những cuộc viếng thăm của con cháu sống rải rác mọi quốc gia trên thế giới. Những đứa con và cháu là những mẫu người sống lưu lạc và không bao giờ muốn đối mặt với quá khứ sống ở những nơi không phải là quê hương mình và rất ngần ngại khi xác định lý lịch của mình…
Chợ Lớn, dần đã lãng quên. Những cửa hiệu, những sạp hàng, những con phố, những ngõ hẻm. Những người Tiều trồng rau. Những người Quảng buôn bán. Những người Hẹ dệt vải. Những người Hải Nam tiệm ăn. Những phố Tản Ðà, Ðồng Khánh, Nguyễn Tri Phương đầy tiệm ăn náo nhiệt… Vincent Lam đã trở về, đã chụp ảnh, đã gặp lại những người thân của gia đình. Những tấm ảnh mở ra những cuộc sống. Ở một nghĩa nào đó, viết về ngày đã qua tương tự như làm hồi sinh lại quá khứ. Mà quá khứ ấy, không phải là của Vincent Lam mà còn là của một gia tộc mà vì thời thế hoặc vì mưu sinh mà lưu lạc khắp bốn phương trời sinh sống ở mọi nơi mọi quốc gia trên thế giới.
Ðọc Marguerite Duras để nao nao nhớ lại bến Bắc qua sông Hậu Giang, để ngậm ngùi về tâm tình của một người đàn bà ngoại quốc đã để lại tâm tình nơi xứ sở tạm ngụ. Ðọc Graham Greene để nhớ tới Sài Gòn, nhớ tới quán cà phê bên lề đường của khách sạn Continnental, nhớ tới thời gian của chiến tranh của xáo trộn chính trị.
Còn đọc Vincent Lam, ý nghĩ nào hiện đến? Có còn tồn tại không cái thế giới của người Hoa, những người ngụ cư nhưng vẫn tồn tại văn hóa riêng, vẫn đèn nến sáng choang ở những ngôi chùa thờ Quan Thánh, thờ Bà Thiên Hậu?
Còn tôi, vẫn thỉnh thoảng bâng khuâng về những khi tuổi nhỏ, tinh nghịch đóng vai vua Quang Trung để tập kích đám học trò trường Tàu đi qua xóm mình. Nhưng, hình như Chợ Lớn là lãnh địa của họ. Buổi chiều đi học về muộn, nhìn bầy chim én bay lượn trên nóc Chợ Lớn, thấy những hàng quán bán ăn đêm với những tiếng người các chú ngọng líu ngọng lo, tự nhiên thấy mình đi lạc vào một lãnh địa khác. Cái cảm giác ấy, thật là kỳ lạ… Qua Hoa Kỳ, ngụ cư ở xứ người, tự nhiên lại thấy những người Tàu Chợ Lớn ấy với dân tộc mình cũng có điều gần gũi. Họ đi khắp nơi trên thế giới để sinh sống nhưng với Việt Nam họ vẫn còn nhiều điều quan hệ. Ít ra, họ cũng chịu chung số phận của những nạn nhân của Cộng Sản và đã mang cuộc đời mình thách đố với biển cả với bão giông để tìm kiếm tự do…
Năm 1943, vào lúc thịnh thời của thơ mới, nhà xuất bản Á Châu cho ra đời một tập thơ khá lạ: Tập thơ Quê Ngoại của Hồ Dzếnh với lời giới thiệu:
Lần đầu tiên thi ca Việt Nam được tô điểm một cách trau chuốt bằng ngọn bút linh diệu của một nhà thơ ngoại quốc.
Thực ra, nói nhà thơ ngoại quốc là chưa chính xác lắm, nhà thơ Hồ Dzếnh tên thật là Hà Triệu Anh (phát âm theo giọng Quảng Ðông là Hồi-Tsìu-Ding, thu gọn lại là Hồi Dinh, nghe âm không được hay lắm nên tự đổi lại là Hồ Dzếnh). Hồi đó những người trong làng văn nghệ vẫn cứ trêu đùa gọi ông là Hồ Dinh và có người còn đặt ra một vế đối “Hồ Dinh dính hồ hồ chẳng dính” và có người đối là “Ngọc Giao giao ngọc ngọc không giao” (mượn tên nhà văn Ngọc Giao) hoặc là “Vũ Bằng bằng vũ vũ chưa bằng” (mượn tên nhà văn Vũ Bằng), nhưng tất cả đều chưa được hay và chỉnh lắm...
Ông là một người có cha Tàu mẹ Việt. Ông viết về đất nước quê hương của mẹ: Quê Ngoại. Cha ông tên là Hà Kiến Huân, gốc người Quảng Ðông, Trung Hoa di cư sang Việt Nam vào những năm cuối của thế kỷ 19 gặp mẹ ông là bà Ðặng Thị Vân, một cô gái chở đò trên sông Ghép, Thanh Hóa. Hai người lập gia đình và sinh sống bằng cách buôn bán và đổi chác hàng hóa trên một con đò dọc nhỏ xuôi theo các bến chợ ven sông. Có lần ông viết:
Dòng máu Trung Hoa đến tôi không còn nguyên vẹn nữa. Nhưng đó là dòng máu của cội nguồn, quê cha đã hòa chung cùng dòng máu Việt Nam để làm nên tâm tư tình cảm và văn phong của “Chân Trời Cũ”. Thêm vào đó là cuộc sống quá ư nghèo nàn tù túng của một làng quê với những số phận của con người hẩm hiu nghèo khổ và tôi gần gũi thân yêu ngay từ khi còn thơ ấy đã tạo dựng cho tôi cái “đất” để viết văn và trở thành cảm hứng khơi nguồn cho tôi trong sáng tạo.
Tập thơ Quê Ngoại từ khi ra đời đã là một viên châu ngọc của thi ca Việt Nam. Nhiều bài thơ, đã trở thành bất tử và ngôn ngữ ấy đã biểu hiện được tâm tình một thời của dân tộc Việt Nam. Tạp chí Tri Tân đã có nhận xét:
Tên tuổi của người Minh Hương ấy, văn học quốc ngữ không nề hà gì mà chẳng đón tiếp như đã đón tiếp bao nhiêu những nhà văn hữu tài khác...
Trong tập thơ, người yêu thơ đã tìm ra được rất nhiều những bài thơ tuyệt tác. Có những bài thơ được phổ nhạc và trở thành quen thuộc đến nỗi như là một ngôn ngữ thường hằng và sống động.
Những câu thơ thật quen thuộc và hình như lúc nào cũng tiềm tàng những cuộc sống riêng, những tâm tư riêng nên đã thành những ấn tượng không thể phai nhòa trong cảm quan người nhận.
Năm 1942, Hồ Dzếnh in “Chân Trời Cũ”. Một gia đình dòng tộc người Minh Hương được phác thảo lại trong những thiên truyện ngắn rất gần với những trang tự thuật. Nhân vật xưng tôi, có khi là chính bóng dáng của tác giả, tuy được phác họa trong sự cố ý làm mờ nhạt đi để những nhân vật khác nổi bật lên. Một người cha người Hán giang hồ đi sang xứ người lập nghiệp gặp người mẹ người Việt và thành một tiểu gia đình mà số phận họ buộc trói theo dòng đời trôi nổi. Người mẹ Việt, là hình bóng muôn đời của sự hy sinh, là gà mẹ xòe cánh ra ấp ủ đàn con giữa những đe dọa của cuộc đời. Rồi những người thân của nhân vật xưng tôi: chú Nhì, người anh cả, đứa cháu đích tôn, cô em Dìn, chị đỏ Ðương, người chị dâu Trung Hoa, ông anh hai trụy lạc,… tất cả sống trong một xã hội mà những lề thói, những phong tục là những sợi dây buộc chặt vào một đời sống mà sự thiếu thốn và nghèo khổ luôn luôn lai vãng…
Trong Chân Trời Cũ chúng ta thấy một đời sống cũ đã qua nay trở lại từ cái tâm hoài cổ, từ những suy tư bắt nguồn từ sự nâng niu những kỷ niệm khó quên của một đời người. Và, vì sống ở xứ sở bên mẹ nên quê ngoại lại gần gũi hơn và chan chứa tình cảm.
Hồ Dzếnh cũng có lần nói về tác phẩm Chân Trời Cũ của mình:
Tôi là kẻ ít tin nhất rằng loài người đẻ ra đã sẵn cái tài trong óc. Cho nên được mang danh là Nhà Văn tôi thấy thẹn thùng biết mấy! Do những tình cờ của hoàn cảnh cô xát với cõi đời chúng ta để cố gắng nói ra nỗi lòng u kín đã nghiêng về cuộc sống bên trong. Nhưng trên cả Tình và Tài, trên những vinh hạnh chói lòa nhiều khi rất không chân thật, một điểm sáng lấp lánh từ ngàn thu, một “Triều Thiên” mà thế kỷ nào cũng ao ước, thèm khát đó là Tấm Lòng.
Nhà văn Lý Lan
Thời tiền chiến có nhà văn mang hai dòng máu Việt - Trung Hoa, thì về sau này có một nhà văn khác cũng mang hai dòng máu cha người Quảng Ðông mẹ người Lái Thiêu, nhà văn nữ Lý Lan.
Lý Lan là một nhà văn nữ khá nổi danh ở Việt Nam có truyện ngắn được giảng dạy ở chương trình văn, bậc trung học ở trong nước. Cô cũng là một thi sĩ và là một dịch giả đã chuyển ngữ truyện Harry Potter sang Việt ngữ. Trong thực tế, cô là một nhà văn người Việt gốc Hoa, và cũng là một nhà văn người Mỹ gốc Việt. Cha cô người Quảng Ðông, huyện Triều Dương, thành phố Sán Ðầu. Mẹ cô người Lái Thiêu và cô sinh ra ở Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Và cô lấy chồng người Mỹ, một giáo sư đại học, định cư ở cả hai nơi, Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng tôi vẫn gọi cô là một nhà văn nữ Hoa Kiều.
Tại sao? Bởi vì, trong các tác phẩm của cô, tôi thấy rõ nét chân dung của một người gốc Hoa với tất cả tâm tư, vóc dáng, đời sống,... được thể hiện. Những người gốc Hoa này không phải là hình ảnh của những ông chủ bụng bự, những bang chủ chi phối đời sống kinh tế chính trị ở Việt Nam. Họ cũng xa lạ với khung cảnh của Chinatown mà bất cứ ở quốc gia nào trên thế giới cũng hiện diện. Ở trong truyện của Lý Lan, nhân vật có thể là một cô gái nhạy cảm ngây thơ, là những cô cậu thiếu nhi bé nhỏ, là những ông già “các chú”, những bà “xẩm” của những xóm lao động ồn ào, những nhân vật mà thường ngày chúng ta bắt gặp trong cuộc sống gần cận. Ở trong những khung cảnh quen thuộc của Chợ Lớn, nhịp đập nhân sinh đã được vẳng nghe từ những tâm sự bình thường của những đời thường tiếp diễn. Trong đời sống ấy, của những ngày sau 1975, dường như lẩn khuất đâu đó có tiếng thở dài, “trầm và sâu”.
Có thể, vì cảm nhận từ những cuộc dời đổi. Lúc Cộng Sản chiếm miền Nam, Lý Lan là một sinh viên, rồi sau đó đi dạy học, viết văn, làm báo. Cô không viết về thời sự, nhưng ghi nhận lại cuộc sống bằng con mắt quan sát của mình. Kinh nghiệm sống làm cho cô chín chắn hơn trong những đãi lọc để có một quan niệm viết trung thực. Ðời sống thực tế với biết bao nhiêu dời đổi và cuộc sống người dân cũng ảnh hưởng theo với những khó khăn những nghiệt ngã. Lý Lan phác họa lại cuộc sống ấy, nhẹ nhàng đi tìm những chi tiết tưởng nhỏ nhoi nhưng sống động. Ðọc những truyện ngắn, độc giả có cảm tưởng như lần trải theo những tâm sự những đoạn đời mà người kể chuyện, với tâm hồn mẫn cảm và tấm lòng nhân hậu, đã viết ra.
Lý Lan kể lại đời sống và thấp thoáng ở đó, những tiếng thở dài, “trầm và sâu”. Có thể là một cảm hoài về đời sống. Có thể là một cảm giác phải có của người hay nhìn ngoái lại thời gian cũ xưa trong cơn dời đổi của xã hội. Trong truyện ngắn “Bé Sáo vào đại học”, thấp thoáng tiếng thở dài. Người mẹ, Ðiệp, bạn gái của tác giả, như một thí dụ cho tiếng thở dài ấy:
Với lý lịch của mình, Ðiệp không thể nào vào đại học và cũng không thể kiếm được một việc làm ở thành phố. Người yêu học tập cải tạo ba tháng trở về, đám cưới rồi Ðiệp theo gia đình chồng “hồi hương”. Bạn tôi xa Sài Gòn từ đó, 18 tuổi, quần jeans bạc màu sơ mi xắn tay áo cao trên cùi chỏ. Hai vợ chồng trôi dạt qua mấy vùng đất khai hoang, hồi đó gọi là kinh tế mới. Mười năm trước bắt đầu ổn định, Ðiệp rủ tôi về thăm rẫy nhà nó. Bé Sáo quấn quít gần như nhại theo cách ngồi cách đứng cách trò chuyện của “dì Lan ở Sài Gòn”. Con Sáo nhỏ mếu máo chạy theo tôi níu chéo áo tôi đòi cho lên thành phố. Ðiệp dỗ con: “Ráng học giỏi mới được lên Sài Gòn”. Sau làn khói xe và bụi đường con sáo nhỏ của tôi mím môi ghìm nước mắt nhìn theo hướng chiếc xe đò lao đi.
Chuyện kể thật, và tràn lan ở đời sống này, quen thuộc đến thành bình thường mà sao vẫn gợi ra một nỗi niềm nào trắc ẩn. Những người có lý lịch liên hệ nhiều đến chế độ cũ trong xã hội này liệu có chỗ đứng không? Hay chuyện lên Sài Gòn học đại học như một giấc mơ của những con sáo, sang sông, nhưng vẫn còn đầy bẫy sập chực chờ từ một xã hội mà con người phải tranh sống để vượt qua những khó khăn chồng chất của cuộc nhân sinh…
Một truyện ngắn khác “Dân Ngã Tư” trong tập “Sài Gòn Chợ Lớn Rong Chơi” lại là một truyện của những người không nhà chọn lề đường hè phố làm nơi cư ngụ. Và một điều lạ lùng, là sinh hoạt của góc phố ấy vẫn bình thường dù hứa hẹn cơn mưa bão sắp kéo tới. Họ, những người nghèo nhất của thành phố, vẫn an phận với cái nghèo nàn cơ cực của mình. Ai buôn bán lặt vặt cứ buôn bán, ai gây lộn cãi cọ cứ tự nhiên, và thời tiết có bão bùng cũng mặc kệ. Lý Lan viết:
Tôi nói với chị Bình: “Sắp bão gió cấp 12 không lo thân mình chưa có chỗ trú lại đi lo chuyện bao đồng”. Chị cười thản nhiên (hay hồn nhiên quá?): “Ôi , bất quá gió thổi bay tấm ni lông hay mấy giỏ đồ rách. Cầm như xui xẻo bị ‘hốt’ lòng lề đường vậy mà. Mình lo sao nổi chuyện tự nhiên của trời đất”.
Nói vậy nhưng khi mưa bắt đầu lắc rắc, chị lật đật giành giật với cơn gió tấm ni lông đang bay phần phật, cột hai chéo vô cửa sắt, còn hai chéo kia chèn mí bằng gạch để tạo một không gian hẹp hình tam giác nơi thằng Tẹo đang ngủ say…
Và tác giả kết luận:
Nhà là gì? Là một nơi ta quen thuộc, nơi ta là ta, nơi ta chia sẻ với người thân cuộc sống ở cõi đời này. Tôi hiểu vậy khi anh Su đứng ở ngã tư mà nói rằng “Nhà tui là đây”. Nhưng anh Su à, tôi vẫn không muốn đính chính điều đã viết. Ngã tư không phải là nhà.
Có phải tác giả muốn diễn tả về cuộc sống mà sự cam chịu đã thành một quán tính để vượt qua những khó khăn của kiếp người hiện tại. Hình như, tôi thoáng nghe được tiếng thở dài, “trầm và sâu”…
Lý Lan là người Việt gốc Hoa, cô lớn lên trong một xóm người Hoa và chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa bắc phương này. Có lẽ, có lúc cô cũng thấy mình đang chơi vơi giữa hai văn hóa Việt và Trung Hoa. Nhất là khi đế quốc phương bắc đang dòm ngó và tạo cho cô có cảm giác bị kỳ thị. Trong khi viết văn, cô kể chuyện nhiều khi với tư cách tự thuật và trang trải vào đó những tâm sự của mình. Những nơi chốn, khi cô sống tự thuở ấu thơ trải ra biết bao nhiêu kỷ niệm. Những nhân vật, qua những góc cạnh nhìn ngắm, ngầm chuyên chở những tâm tư, mà, qua cuộc sống, vẫn lấp lánh trong tâm thức những dư vị êm đềm, của tấm lòng đối với quê hương.
Lý Lan viết về sinh hoạt của cộng đồng người Hoa nơi cô đã sống cả một thời tuổi trẻ. Những chuyện ghi nhận từ những nơi quen thuộc hàng ngày được phác họa lại, có một chút hoài niệm và một chút trăn trở.
Bây giờ đi dạo quanh khu vực này, nằm giữa đường Trần Hưng Ðạo và Nguyễn Trãi, khoảng gần Nguyễn Tri Phương tôi cố hình dung cảnh quan đã đập vào mắt cha tôi khi ông lần đầu tiên bước chân lên từ bến đò La Cai: mấy cái xóm nhà lá đó đã cầm chân chàng lãng tử đến già! Ðất lạ quê người, nhiều địa danh nhân vật ngày đó bây giờ ông nhắc lại đọc theo âm tiếng Tiều, mà cảnh đã đổi, người không còn, chuyện chưa ghi trong sách, tôi không biết làm sao đối chiếu truy tìm. Vả lại làm sao hình dung “xóm nhà lá” ở giữa quận 5 Sài Gòn?
Cảnh cũng đổi và người đã thay, những phố Tàu ngày xưa không còn những đường nét cũ và sinh hoạt ngày nào cũng biến đổi đi. Lý Lan, làm người đi trở lại ngược dòng thời gian, trở về những con hẻm nhỏ, về những cuộc sống mà phong vị cũ đã thành những ký ức xưa. Chính cái thái độ chân thành đã làm sức lôi cuốn cho người đọc. Ði tìm lại những khoảng thời gian đã mất thật khó lắm thay!
Viết về đời thường, một công việc dễ mà khó. Làm sao trong cái hỗn độn đời sống ấy, ai cũng biết, ai cũng quen, tìm ra được những điều bất ngờ để thành lạ lùng và mang nhiều ý tình chuyên chở. Viết về một quán nước người Hoa thường hay nằm ở những ngã tư đường, đã có Sơn Nam, đã có Bình Nguyên Lộc… Cũng tả về tiếng kêu ê a của phổ ky gọi nhà bếp làm thức ăn cho thực khách, cũng có những câu chuyện làm ăn mỗi ngày giao dịch trong quán... Nhưng ở trong “Tiệm nước” của Lý Lan còn có một chút thoáng qua của thời sự, của ngày đổi tiền của Cộng Sản, và lòng trung tín của những người nghèo như bác xích lô không lợi dụng thời thế để giựt tiền của người trao gửi. Lý Lan viết như người kể chuyện, không cố tình thêm thắt, không xử dụng kỹ thuật văn chương. Nhưng, ở chính điều đó, lại là một điểm để tác giả “Sài Gòn Chợ Lớn Rong Chơi” khác với những người cầm bút khác.
Có người nói văn chương của Lý Lan có những nét mộc mạc từ tả cảnh tả người của văn chương miền Nam với những Hồ Biểu Chánh, rồi Vương Hồng Sển, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc,… Riêng tôi, thì thấy rằng hình như trong các câu chuyện kể, nhiều khi giản đơn không cố tình phức tạp hóa sự kiện, lại ngầm chứa những điều gì mà tôi cho là mới lạ từ văn phong diễn tả của cô. Có lúc cô là người tự thuật, nhưng có khi cái tôi của nhân vật lại là một người khác mà tôi thường gặp phong cách này trong văn học hiện đại. Tôi cảm nhận một điều, cô đã cố gắng đi tìm kiếm những cái mới mà mọi người tưởng như đã cũ…
Nhà văn Vincent Lam
Một nhà văn Hoa kiều khác, rất yêu Chợ Lớn, nơi anh đã có nhiều kỷ niệm. Ðó là nhà văn Vincent Lam. Mà đặc biệt hơn nữa, anh là con của một gia đình người Việt gốc Hoa sinh trưởng ở Chợ Lớn. Và anh đang viết một tiểu thuyết coi như là đầu tay mà chưa hoàn tất. Tiểu thuyết ấy viết về thành phố Chợ Lớn, nơi chốn mà anh không thể bao giờ quên được với những kỷ niệm của mình. Trong trang web của anh, anh có rất nhiều hình ảnh về thành phố ấy. Tôi đã có một chút thảng thốt khi nhìn lại những phong cảnh. Những nóc chợ ngói rêu, những con đường với những căn nhà cổ xây dựng từ thuở nào...
Vincent Lam là một nhà văn đã đoạt giải thưởng Giller về văn học của Canada với tập truyện ngắn “Bloodletting and Miraculous Cures”. Vincent Lam còn là một bác sĩ làm việc trong phòng cấp cứu của bệnh viện Toronto East General Hospital.
Một năm ở trên thế giới trao tặng rất nhiều giải thưởng văn chương và có nhiều nhà văn tài năng kiệt xuất, mà tại sao tôi lại muốn tìm hiểu để viết về Vincent Lam? Lý do giản dị, vì tính tò mò khi có người viết về đất nước Việt Nam, cũng y hệt như khi tôi đọc và tìm hiểu về Marguerite Duras hay Graham Greene. Vincent Lam viết “Cholon, Near Forgotten”. Một cuốn tiểu thuyết coi như tự truyện của một người mà gia đình đã có thời sống trong cộng đồng Hoa Kiều ở Chợ Lớn. Xem qua những tấm hình trên website của Vincent Lam, tôi như thấy lại một đời sống của những người Việt gốc Hoa, mà có khi họ là làng xóm láng giềng của tôi. Tôi đã sống ở vùng Chợ Lớn, mẹ tôi có sạp vải và buôn bán ở Chợ Lớn và tôi có những đứa bạn cùng lớp người Hoa nói tiếng Việt còn ngọng đớt. Ðọc những trang sách viết về những con phố cũ, những ngõ hẻm xưa, có cái thú vị của những người trở về thăm lại những đoạn ấu thời đã qua đi mãi mãi…
Vincent Lam sinh năm 1974 tại London, Ontario, trong một gia đình gốc Trung Hoa đã sinh sống ở Việt Nam trước khi di cư qua Canada. Cha của Vincent Lam đã có rất nhiều nghề nghiệp, từ nghề xây cất tới đầu bếp, và sau cùng là một chuyên gia canh nông tại Ấn Ðộ. Bốn năm sau, gia đình di chuyển tới Ottawa nơi mà Vincent Lam đã lớn lên từ những truyện kể của người cha cũng như từ các tác phẩm của C.S. Lewis và Roald Dahl, và manh nha trong óc và càng ngày càng in sâu là trở thành nhà văn. Hiểu rằng bản thân mình khó có đủ ngôn ngữ để sáng tạo của tác phẩm văn chương lớn, Lam ghi danh vào trường Y khoa của Viện Ðại Học Toronto với hy vọng rằng từ những kinh nghiệm của đời sống thực tại và những chất liệu giàu có của nghề nghiệp sẽ giúp ích rất nhiều cho mong ước ấy.
Khi Lam làm việc trên tàu Arctic với nhiệm vụ là một bác sĩ, anh tình cờ gặp nhà văn nổi tiếng Margaret Atwood và được bà ưng thuận đọc trước và nhận định các truyện ngắn của anh. Sau đó bà gửi cho anh một email chỉ có vỏn vẹn một hàng chữ: “Chúc mừng anh! Anh có thể viết văn được!” Sau đó bà đã giới thiệu Lam với nhà xuất bản Doubleday ở Canada. Hơn thế nữa, bà còn lấy một truyện ngắn của Lam và thay đổi bố cục của nó cũng như gợi ý Lam viết một truyện ngắn khác dựa trên những hiểu biết về y học của bệnh Sars. Lam thực hiện theo gợi ý của bà và viết thành truyện ngắn “Contact Tracing”. Ðây là một truyện ngắn nổi bật nhất của Lam trong tuyển tập “Bloodletting and Miraculous Cures” đoạt giải Scotiabank Giller Prize. Lam thường xuyên dành cả buổi sáng để viết văn còn buổi chiều và ban đêm thì túc trực trong phòng cứu cấp của bịnh viện Toronto. Anh làm việc trong bịnh viện và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chống lại dịch bệnh Sars cũng như am hiểu những tình cảnh và tâm lý của người bệnh. Anh kể:
Ở phòng cấp cứu của bệnh viện, người y sĩ là tâm của cơn giông bão tạo ra bi kịch và căng thẳng. Chúng tôi làm việc trong một thế giới của cả hai tính chất y khoa và con người thường phối hợp lại, nơi mà tiêu chuẩn thật cao và có khi không tiên đoán trước được những trở ngại. Là bác sĩ, tôi đáp ứng tất cả những điều chung quanh tôi, và làm việc trong thế giới ấy. Là một người viết văn, tôi vận dụng tất cả để có chất sống động và mới lạ trên trang giấy.
Với những câu chuyện của bốn sinh viên y khoa: Ming, Fitz, Sri và Chen; Lam đã mở ra những thế giới của những người theo đuổi nghề nghiệp chữa bệnh cho người. Lam đã có một câu ví von:
Tôi nghĩ rằng làm cha và làm nhà văn còn khó hơn là làm nhà văn và bác sĩ vì lý do với làm bác sĩ và nhà văn thì phải lập kế hoạch để có bằng cấp. Còn khi làm cha mẹ thì không bao giờ chấm dứt được vai trò và trách nhiệm của bậc cha mẹ. Khi bạn đang chăm chú với công việc của mình và đứa con trai dập cửa thình thình và hét “Mở cửa! Mở cửa!” thì chắc chắn bạn phải đứng dậy và mở cửa.
Người cha đã để lại nhiều ấn tượng cho tâm hồn Lam. Ðó là một người đàn ông sinh trưởng ở Trung Hoa nhưng đã sống lưu lạc ở nhiều quốc gia và đã lăn lộn với nhiều nghề nghiệp. Cuộc đời ấy đã thành một ám ảnh thôi thúc Lam viết một thiên tự truyện về gia đình mình. Cuốn truyện viết về một nơi chốn mà gia đình Lam đã sống một thời gian khá lâu. Vincent Lam thố lộ:
Tác phẩm có tên là “Cholon, Near Forgotten”. Ðó là cuốn sách đầu tiên tôi định viết. Năm 14 tuổi tôi đã muốn viết nó. Khi tôi không còn làm công việc phụ trách về sức khỏe y tế cho cộng đồng, tôi lại muốn viết lại về nó. Nhưng rồi, lại băn khoăn bất định và đành viết tập truyện ngắn “Bloodletting and Miraculous cures” trước. Vậy là cuốn tiểu thuyết này đã bị đình hoãn nhiều lần.
Một lần khác, trong một cuộc phỏng vấn của CBC Radio, người con của một gia đình Trung Hoa đã là cư dân của Chợ Lớn đã phát biểu về sự đam mê viết văn của mình:
Tôi như đang bị kiệt sức như một nhà văn trong lúc đang chấm dứt một ngày cầm bút, nhưng thường thường lại làm tôi hài lòng khi đến nhà thương làm việc, bởi vì sau một ngày thất bại khi đối diện với trang giấy trắng tinh, đó là giây phút hồi sinh lại mênh mông, như khi đến phòng cấp cứu để nhìn thấy những bệnh nhân có thực của đời sống có thực với những bệnh tật, những cơn đau ngực, những vết cắt và những cơn sốt...
Một người trẻ tuổi có khi đã muốn và đã quyết định làm nhà văn trước khi trở thành bác sĩ, Lam đã nói về quyết định của đời mình:
Tôi nghĩ khi tôi ở tuổi 14,15 có lúc tôi đã ngồi vào bàn viết và đột nhiên tự nhận ra là tôi chẳng có một ý nghĩ nào để viết cả rồi tôi nghĩ tôi phải bắt buộc hội nhập vào thế giới để học hỏi một điều gì đó trước khi cầm bút viết về nó...
Cuốn sách “Cholon, Near Forgotten” kể về nhân vật chính là Percival Chen sinh ra ở một ngôi làng nhỏ ở Quảng Ðông cùng thời gian với sự suy tàn của đế chế Mãn Thanh. Ông ta bị mồ côi cha mẹ và sau cuộc xâm chiếm của quân đội Nhật Bản vào Hồng Kông thì chạy qua Việt Nam và vào Sài Gòn sinh sống. Ông ta đã tạo được sự may mắn khi làm hiệu trưởng một trường dạy Anh ngữ ở Sài Gòn nhưng lại làm mất đi cơ hội khi làm nghề cờ bạc chuyên nghiệp trong những năm chiến tranh. Khi cuộc chiến bùng nổ Chen di cư ra khỏi Việt Nam và khi sang sống ở Brisbane, Úc Châu thì bị ung thư và ở trong hoàn cảnh thời gian đợi chờ cái chết. Trong tâm cảnh ấy, Chen chỉ chờ mong những cuộc viếng thăm của con cháu sống rải rác mọi quốc gia trên thế giới. Những đứa con và cháu là những mẫu người sống lưu lạc và không bao giờ muốn đối mặt với quá khứ sống ở những nơi không phải là quê hương mình và rất ngần ngại khi xác định lý lịch của mình…
Chợ Lớn, dần đã lãng quên. Những cửa hiệu, những sạp hàng, những con phố, những ngõ hẻm. Những người Tiều trồng rau. Những người Quảng buôn bán. Những người Hẹ dệt vải. Những người Hải Nam tiệm ăn. Những phố Tản Ðà, Ðồng Khánh, Nguyễn Tri Phương đầy tiệm ăn náo nhiệt… Vincent Lam đã trở về, đã chụp ảnh, đã gặp lại những người thân của gia đình. Những tấm ảnh mở ra những cuộc sống. Ở một nghĩa nào đó, viết về ngày đã qua tương tự như làm hồi sinh lại quá khứ. Mà quá khứ ấy, không phải là của Vincent Lam mà còn là của một gia tộc mà vì thời thế hoặc vì mưu sinh mà lưu lạc khắp bốn phương trời sinh sống ở mọi nơi mọi quốc gia trên thế giới.
Ðọc Marguerite Duras để nao nao nhớ lại bến Bắc qua sông Hậu Giang, để ngậm ngùi về tâm tình của một người đàn bà ngoại quốc đã để lại tâm tình nơi xứ sở tạm ngụ. Ðọc Graham Greene để nhớ tới Sài Gòn, nhớ tới quán cà phê bên lề đường của khách sạn Continnental, nhớ tới thời gian của chiến tranh của xáo trộn chính trị.
Còn đọc Vincent Lam, ý nghĩ nào hiện đến? Có còn tồn tại không cái thế giới của người Hoa, những người ngụ cư nhưng vẫn tồn tại văn hóa riêng, vẫn đèn nến sáng choang ở những ngôi chùa thờ Quan Thánh, thờ Bà Thiên Hậu?
Còn tôi, vẫn thỉnh thoảng bâng khuâng về những khi tuổi nhỏ, tinh nghịch đóng vai vua Quang Trung để tập kích đám học trò trường Tàu đi qua xóm mình. Nhưng, hình như Chợ Lớn là lãnh địa của họ. Buổi chiều đi học về muộn, nhìn bầy chim én bay lượn trên nóc Chợ Lớn, thấy những hàng quán bán ăn đêm với những tiếng người các chú ngọng líu ngọng lo, tự nhiên thấy mình đi lạc vào một lãnh địa khác. Cái cảm giác ấy, thật là kỳ lạ… Qua Hoa Kỳ, ngụ cư ở xứ người, tự nhiên lại thấy những người Tàu Chợ Lớn ấy với dân tộc mình cũng có điều gần gũi. Họ đi khắp nơi trên thế giới để sinh sống nhưng với Việt Nam họ vẫn còn nhiều điều quan hệ. Ít ra, họ cũng chịu chung số phận của những nạn nhân của Cộng Sản và đã mang cuộc đời mình thách đố với biển cả với bão giông để tìm kiếm tự do…